KINH THANH TỊNH PHÁP THÂN TỲ LÔ GIÁ NA
TÂM ĐỊA PHÁP MÔN
THÀNH TỰU NHẤT THẾ TAM CHỦNG
TẤT ĐỊA ĐÀ LA NI
(KINH
SỐ 899)
-Việt dịch: Chùa Liễu Quán, Sa Môn THÍCH QUẢNG TRÍ
Lúc bấy giờ, Đức Phật Tỳ Lô Giá Na (Vairocana) tại LIÊN HOA TẠNG Thế Giới (Padma-kosa-lokadhatu) cùng với trăm ngàn ức Hóa Thân Phật Thích Ca Mâu Ni (Śākyamuṇi) nói Tâm Địa Thi La Tịnh Hạnh Phẩm Giáo Bồ Tát Pháp chứng BỒ ĐỀ ĐẠO.
Bấy giờ, trăm ngàn ức Hóa Thân Phật
Thích Ca Mâu Ni khác miệng nhưng cùng lời bạch rằng:
“Pháp Thân Thế Tôn! Tất cả chúng
sanh tuy được TÂM ĐỊA PHÁP MÔN, nhưng không hay tinh cần tu học. Dẫu có nhớ tới
nhưng lại bỏ qua, buông lung tâm ý, làm các việc không lành, hoặc có nhớ nghĩ:
“Ta được Pháp Môn thâm diệu của
chư Phật” nhưng lại không tinh tấn, lại hay thoái chuyển đại nguyện Đạo Ý.
Không thường ngày đêm một lòng tu
học cầu ĐẠO VÔ THƯỢNG, hoặc thoái thất, tạo các nghiệp ác nên lưu chuyển trong
biển sanh tử không có ngày ra khỏi, không nhớ được TÂM ĐỊA PHÁP MÔN, bị luân
hồi trong nẻo ác.
Các chúng sanh như vậy, làm sao điều
phục được?!…”
Bấy giờ, Phật Tỳ Lô Giá Na bảo:
“Trăm ngàn ức Hóa Thân Phật Thích Ca
Mâu Ni! Ông hãy lắng nghe! Ta sẽ vì ông mà nói Pháp Môn điều phục khiến cho tất
cả chúng sanh đều được an lạc.
Ở nơi TÂM ĐỊA PHÁP MÔN này hoặc nghe,
hoặc không nghe đều được điều phục.
Nếu nghe được, thì tăng thêm tinh
tấn. Nếu chưa nghe, thì sẽ phát sanh Đạo Ý.
Ông nên biết, nếu có các chúng sanh
được nghe Tâm Địa Pháp Môn, nhưng không ân cần tinh tấn, hay tạo các ác, ở
trong nơi tốt đẹp mà tạo các nạn khiến cho tâm không an.
Tất cả chúng sanh đó sẽ bị các khổ
bức não, nếu phát Đạo Ý, một lòng suy nghĩ và ngày đêm tinh cần một lòng tu
học.
Vì sao vậy? Cũng như con ngựa hoang khó trị, cần phải đánh đập, mới có thể sai
khiến được.
Có chúng sanh chưa được nghe Phật
Pháp, nhờ chút Phước của đời trước, nay dẫu được thân người, nhưng ăn mặc thiếu
thốn, lại ưa tạo ra các nghiệp ác, không cầu Nhân giải thoát xuất thế.
Các chúng sanh này vô minh sâu dày,
không biết thân này như huyễn, như hóa, thoạt sống thoạt chết, mà chỉ tạo nghiệp ác.
Chết rồi phải đọa Địa Ngục, thọ các
khổ độc không ngày ra khỏi. Những hạng người này, Phật rất thương xót.
***Các ông nên
biết, các người tạo ác đó, các ông cần phải điều phục có phương pháp. Luôn luôn
tạo ra các bệnh nặng mà phương pháp của Thế Gian không thể cứu chữa nổi. Để các
chúng sanh đó bị các khổ bức bách mà phát Đạo Ý. Cho nên dẫn họ đi vào PHẬT ĐẠO.”
Phật Thích Ca Mâu Ni nghe nói vậy
xong, lấy làm thẹn thùng, đảnh lễ rồi lui về chỗ cũ, ngồi ở Đạo Tràng mà suy
nghĩ:
“Cảnh Giới của chư Phật thật là khó
giải khó vào, không thể nghĩ bàn, đủ các phương pháp cứu độ chúng sanh. Phàm
Phu ngu si thật khó điều phục!…”
Lại bảo Đại Chúng rằng:
“Các ông nên biết, THI LA TỊNH HẠNH
PHÁP MÔN TÂM ĐỊA rất là khó nghe khó thấy. Đại Bồ Tát các ông cùng những người
nghe Pháp, hoặc Trời hoặc Rồng hoặc Quỷ Thần…..
cần nên tu học, một lòng tinh cần
gìn giữ không được xao lãng. Về sau sẽ thành Phật”.
Lúc bấy giờ, Đại Phẫn Nộ Kim
Cang (Mahā-krodha-vajra) từ chỗ ngồi đứng dậy, hiện tướng đẹp đẽ phóng
hào quang khó nghĩ bàn (nan tư quang) chiếu mười vạn cõi nước, cúi đầu đảnh lễ
bạch với Kim Cang (Vajradhāra) rằng:
“Đại Sĩ! Tôi nghe chư Phật ngồi ở Đạo Tràng
hay diễn nói Pháp Môn Tổng Trì Đà La Ni, dựng nên vô lượng những sự không thể
nghĩ bàn, thương các chúng sanh phần nhiều ít phước, dầu có thọ trì cũng không
thành tựu.
Cúi mong Đại Sĩ vì những người đó mà
nói đại phương tiện khiến cho thành tựu.
Làm sao sẽ được ba món TẤT ĐỊA?
Làm sao tạo được chín loại Đàn? Làm
sao an trí thân tâm tụng niệm Thần Chú?
Làm sao từ lúc mới niệm tụng được
thấy tướng gì, tự biết sẽ được TẤT ĐỊA (Siddhi)?
Làm sao chọn được chỗ ở? Làm sao
chọn lựa món ăn uống?
Làm sao dâng hiến các món cúng
dường?
Làm sao đầy đủ các oai nghi đi đứng
nằm ngồi, luôn luôn nhớ nghĩ các chúng sanh nghèo khổ không có vật gì cúng dường?
Nên giữ lại (tồn) tướng thế nào sẽ
được MA HA TẤT ĐỊA (Mahā-siddhi)?”
Thời Chấp Kim Cang (Vajradhāra)
bảo:
“Này Phẫn Nộ Quân Trà Lợi (Krodha-kuṇḍali)!
Hãy thưa hỏi Phật, ta không đáp được”
Thời hai vị Kim Cang đồng thanh bạch
Phật rằng:
“Bạch Đức Thế Tôn! Ngài nói Tổng Trì
Pháp Môn, chúng sanh làm sao tu học?”. Mỗi mỗi đầy đủ như trên đã hỏi.
Bấy giờ Đức Phật bảo hai vị Kim Cang
rằng:
“Các ông có thể hỏi Đức Tỳ Lô Giá
Na, Ngài hay biết việc này.”
Tức thời, Đức Phật nhập vào Tam
Muội (Samādhi) tác đại thần thông khiến cho Đại Chúng hoặc Trời hoặc
Rồng hoặc Quỷ hoặc Thần. Tất cả chúng hội thảy đều đến LIÊN HOA TẠNG Thế Giới,
cúi đầu đảnh lễ, bạch rằng:
“Pháp Thân Thế Tôn! Nay con và chúng
sanh tổng trì Pháp Yếu, phần nhiều không thành tựu, được ít công lực, hay
bị TỲ NA DẠ CA (Vināyaka) tạo mọi loại chướng nạn khiến cho
Pháp chẳng thành.
Lại khiến cho người đó trở về tánh
cũ, sanh tâm chán ghét, thoát thất ý niệm mà vứt bỏ.
Chúng sanh của nhóm này không biết
được cảnh giới Diệu Pháp Tâm Địa của chư Phật. Do đó, không thành tựu ba loại
Tất Địa.
Cúi mong Đức Thế Tôn thương xót
chúng sanh mà vì chúng con nói Pháp Yếu thọ trì các Nghi Tắc thanh tịnh.
Làm thế nào được ba loại Tất Địa?
Làm thế nào an trí thân tâm niệm
tụng không bị các Quỷ Thần phá hoại?”
Bấy giờ, Đức Phật Tỳ Lô Giá Na bảo
rằng:
“Các ông nên biết, Ta nhớ khi xưa
mới phát Đạo Ý ở tại chốn A LUYỆN NHÃ (Araṇya: nơi thanh tịnh
vắng vẻ) ngồi suy nghĩ tu tập Tâm Địa Pháp Môn.
Vì không có Trí nên tâm không an
định. Các Pháp không hiện tiền. Các thứ vọng tưởng nổi lên đầy dẫy.
Do vậy, bị các Quỷ Thần gây não hại.
Lạc vào Ma cảnh cho là Phật Pháp.
Sanh tâm tham ái cho là cứu cánh,
không hay không biết. Trải qua vô số kiếp bị Ma làm hại.
Sau đó, bỗng nhớ được Bổn Tâm mới
biết đó là việc Ma, không phải là Phật Pháp.
Tuy biết là vậy mà không có cách gì
trừ được, mới la lớn lên nói với chư Phật rằng:
“Phật có Huệ Nhãn, vì sao lại không thấy con
bị Ma gây não hại?!…”
Tức thời, trong hư không có vô số
Hóa Phật bảo Ta rằng:
“Lành thay, Bồ Tát! Ngươi hãy lắng
nghe! Ta vì ngươi mà nói phương pháp đuổi Ma.
Có Thần Chú tên là TÂM ĐỊA
CHÚ PHÁP, nếu có người trì tụng tức mau được NHẤT THIẾT CHỦNG TRÍ, không bị
các Ma sai khiến”
Ta nghe như vậy, tâm rất vui vẻ bạch
rằng:
“Nguyện xin chư Phật vì con mà nói.”
Thời các vị Hóa Phật liền vì Ta mà
nói.
Ta nghe được rồi, nhớ giữ không
quên, tức thời các Ma liền bỏ chạy.
Ngay lúc đó, Ta được VÔ SANH PHÁP
NHẪN. Đạo lớn Bồ Đề tự nhiên đầy đủ.
Các ông nên biết, TÂM ĐỊA
THẦN CHÚ (Citta-bhūmi-mantra) này, tất cả chư Phật tu TÂM ĐỊA
PHÁP (Citta-bhūmi-dharma) không trì tụng mà thành tựu là điều không
có.
Chư Phật không tụng Chú này mà đầy
đủ NHẤT THIẾT TRÍ (Sarva-jñā) là điều không có.
Nếu không tụng Chú này, mà các Pháp
được tự tại là điều không có.
Nếu Trời, Người dùng các thần Chú
khác, nếu không tụng thần Chú này mà được TẤT ĐỊA là điều không có.
Nếu trước tụng Chú này, sau mới tụng
các Chú khác mà không thành tựu là điều không có.
Tụng Chú này mà bị TỲ NA DẠ CA gây
não hại là điều không có.
Vì sao vậy?
Vì Chú này là TÂM ĐỊA PHÁP YẾU của
tất cả chư Phật.
Các Pháp Thế Gian, Xuất Thế Gian đều
do TÂM ĐỊA mà ra.
Đây là cảnh giới rất sâu xa của chư
Phật, khó có thể vào được.”
Bấy giờ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và
tất cả Đại Chúng cúi đầu bạch rằng: “Mong Đức Thế Tôn nói cho”
Thời Đức Phật Tỳ Lô Giá Na nói TÂM
ĐỊA THẦN CHÚ (Citta-bhūmi-mantra) cho Phật Thích Ca Mâu Ni.
Tức nói Chú rằng:
“ÚM, TÔ ĐỂ SẮT TRA, PHỘC CHIẾT LA”
(Om Su Tisti Vajra)
Nói Chú này xong, Trời tuôn mưa hoa
báu.
Mười phương Thế Giới, hết thảy các
hương hoa tốt đẹp cùng các loại âm nhạc đều vân tập mà cúng dường. Chư Thiên
trỗi nhạc đầy khắp hư không. Tất cả Trời, Rồng đều nói chưa từng có như vậy.
Tuy Đức Phật nói Pháp, nhưng Chúng
Hội có người nghe, người không.
Vì sao vậy? Nếu người có tâm được
giải thoát, người ngộ được ba Không, người được PHÁP NHÃN (Dharma-cakṣu:
con mắt Pháp), người nhập vào cảnh giới của chư Phật không có sợ sệt, người đối
với Tâm Địa Pháp Môn không có chướng ngại…. đều nghe được.
Người khéo biết các phương tiện do
chư Phật đã nói, hiểu rõ tất cả các Pháp như tướng Huyễn thì mới nghe được.
Nếu không đủ những việc đó, thì
không thể nghe được.
Cũng giống như người uống rượu say
nằm mê man không hay không biết.
Bấy giờ, Đức Phật Tỳ Lô Giá Na nói
Chú này xong.
Đột nhiên chẳng hiện, nhập vào nơi
Pháp Giới thanh tịnh.
Đồng một thân biến mười phương cõi
như đại hư không, ngang bằng không có sai khác.
Tất cả Chúng Hội đều không thể thấy.
Lúc đó, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni y
theo Đức Phật Tỳ Lô Giá Na nhập vào Pháp Giới đồng một Chân Thể.
Tất cả Chúng Hội đều không thể thấy.
Thời Văn Thù (Mañjuśrī), Phổ
Hiền (Samanta-bhadra), Quán Âm (Avalokiteśvara), Di
Lặc (Maitreya), Kim Cang Tạng (Vajra-garbha) năm vị
Đại Bồ Tát theo hầu Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nhập vào Pháp Giới nghe Đức Phật
Tỳ Lô Giá Na nói MÔN TÂM ĐỊA PHÁP YẾU, cảnh giới thâm sâu.
Tất cả Chúng Hội đều không biết thầy
mình là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và các Đại Bồ Tát đang ở nơi nào.
Bấy giờ, Đức Phật Tỳ Lô Giá Na ngự ở
Pháp Giới thanh tịnh nào, nhập vào chỗ không có xứ sở (Vô Sở Xứ)?
Chỉ cùng với năm vị Đại Bồ Tát, nói
trì Tâm Địa Thần Chú Pháp Môn, Quỹ Tắc, Oai nghi, tướng Tất Địa.
Đức Phật dạy rằng:
“Các ông nên biết! Nếu muốn thọ
trì TÂM ĐỊA THẦN CHÚ, muốn Thiền Định Trí Tuệ nhập vào các thứ Tam Muội, chứng
Vô Sanh Pháp Nhẫn thì trước nên tụng Thần Chú một trăm vạn biến.
Sau đó, ngồi
Kiết Già, tay trái đè tay phải. Nhắm mắt quán nơi không có xứ sở (Vô sở xứ),
diệt tất cả niệm lại không lìa niệm, đoạn tất cả Duyên lại không rời Duyên.
Trước quán bốn Đại, năm Ấm không có
sở hữu.
Quán như vậy xong, tụng TÂM ĐỊA CHÚ 21
biến, tức tự nhiên được nhập vào vô lượng TAM MUỘI, được VÔ SANH PHÁP NHẪN.
Cảnh Giới tự chứng như vậy, tự biết
lấy, không được nói.
Tụng Chú này không cho miệng lưỡi,
cổ họng động đậy. Dùng Tâm mà tụng niệm, lại phải nhập vào NIỆM VÔ NIỆM.
Đây gọi là CHƠN NIỆM.
Lại nữa, các ông nên biết, người ham
thích Đại Thừa, tu học Thiền Định Trí Tuệ, nếu kiếp trước không có nhân duyên,
ngu si, độn căn, không thể y như trước an tâm niệm, nên cố tụng TÂM ĐỊA THẦN
CHÚ mãn một trăm vạn biến, thì tánh Trí Tuệ tự nhiên sanh. Mau chứng VÔ SANH PHÁP NHẪN.
Nếu đời trước đã từng tu học, bây
giờ đầy đủ Trí Tuệ, không cần phải trì tụng nhiều.
Chỉ y như trước an tâm trì tụng Thần
Chú 21 biến tức được Thiền Định Trí Tuệ.
Người này hay nhập vào các cảnh giới
không có sợ sệt, Bát Nhã Ba La Mật (Prajñā-pāramitā) tự nhiên
đầy đủ, các cảnh giới tự chứng biết lấy.
Lại nữa, nếu có người trì tụng ba Bộ
Thần Chú, muốn được Tâm Địa Thần Chú giúp Pháp mau thành.
Nay Ta vì người phân biệt giải nói:
”Nếu trì Phật Bộ (Buddhakulāya)
trước trì Chú này một trăm vạn biến.
Nếu trì chú của Bồ Tát (Bodhisatva),
tụng Thần Chú này hai trăm vạn biến.
Nếu trì Chú của Kim Cang Bộ (Vajra-kulāya)
nên tụng Chú này ba trăm vạn biến.
Nếu y như vậy, đầy đủ biến số xong
trì Bổn Chú tức được thành tựu.
Vì sao vậy ? Tâm Chú này là mẹ của
tất cả Chú.
Do đó, các Chú Thần (Mantra-Devatā)
không dám trái nghịch.
***Nếu có làm việc gì không yên tâm, chỉ tâm niệm TÂM ĐỊA CHÚ 21 biến, tức
sẽ được đại nghiệm.
Tất cả các Chú Thần mau lại, tùy ý
sai khiến, không dám trái.
Lại nữa, các ông nên biết.
Người trì ba Bộ Thần Chú chưa được
thành tựu, nên biết người đó là hạng Phàm Phu bị Vô Minh che lấp, sanh tâm
thoái chuyển, làm các điều Phi Pháp, tham đắm năm Dục.
Đối với Thần Chú, trì tụng gián
đoạn, hoặc trải qua nhiều thời gian, sau đó đột nhiên phát tâm nguyện Bồ Đề,
tụng trì Thần Chú.
Ta sẽ vì tất cả các người đó
nói TỰ HUÂN TÂM THẦN CHÚ.
Liền nói Chú là:
“NẴNG MƯU BA GIÀ PHẠT ĐẾ, Ô SẮT NI
SA.
ÚM, BỘ LÂM, BÀN ĐÀ DUỆ, SA BÀ HA.
ĐÁT THA YẾT ĐÔ SA BÀ DUỆ, SA BÀ HA.
BÁT ĐẦU MA NI, SA BÀ DUỆ, SA BÀ
HA.BẠT CHIẾT LA MA NI, SA BÀ DUỆ, SA BÀ HA.MA NI, MA NI, MA NI CÂU LA DUỆ, SA
BÀ HA.
ĐÁT ĐIỆT THA: HÀM, HỒNG, BÁ TRA, MA
NI ĐẠT LÝ, HÀM BÁ TRA. ÚM, HÀM HÀM, CA CA BÁ TRA, MA NI, PHẠT CHIẾT LÝ, HÀM BÁ
TRA.”
Đây là TỰ HUÂN TÂM THẦN CHÚ,
còn gọi là TÂM ĐỊA CĂN BẢN THẦN CHÚ hay trừ tội nặng.
Nếu có tội nghiệp, tụng Chú này thảy
đều tiêu diệt.
Lại hay phá công năng của tất cả
Chú, hay thành tựu công năng các Chú, không thể nói đủ được.
Nếu có trì tụng, được hiệu nghiệm vô
lượng.
Nếu có người trì Chú mà nửa chừng bỏ
dở, sau lại tiếp tục, tùy lực trước tụng Thần Chú Căn Bản theo số nhiều ít,
phát nguyện đảnh lễ TỲ LÔ GIÁ NA:
“Đệ tử….. trước
tụng Chú….. được một số, nửa chừng gián đoạn. Nay con trì tụng lại, cầu xin chư
Phật ban cho con công lực trở lại”.
Và bấy giờ, nguyện trì tụng không
gián đoạn…. liền tụng các Thần Chú đó 1080 biến.
Lại y như trước phát nguyện, tức
đồng công lực như xưa nay không gián đoạn vậy.
Đức Phật Tỳ Lô Giá Na dạy rằng:
“Thần Chú này hãy tự trì tụng, không
được lưu truyền cho người Vô Trí (không có Trí).
Vì sao vậy? Vì những người này thấy
các chư Phật nói các phương tiện, tức sanh tham trước, giải đãi, không chuyên
cần tinh tấn, sanh ra tưởng nhớ năm Dục, thoái thất Tâm Bồ Đề.
Vì sao vậy? Vì người này do căn tánh
không kiên cố, ít Trí Tuệ, lưu lạc sanh tử, dầu có tu học cũng không lợi ích
gì.
Vì sao vậy? Như người đem áo mới làm
cho dơ bẩn, sau đó đem giặt sạch sao bằng từ trước đừng làm dơ.
Chú này cũng y hệt như vậy, nếu
trước kia không thoái thất, trì tụng Chú này tức mau thành tựu vậy.”
Lúc bấy giờ, Bồ Tát Quán Thế Âm bạch
rằng:
“Pháp Thân Thế Tôn! Người trì Chú cầu tướng
trạng của ba món Tất Địa như thế nào?
Thượng Tất Địa, tướng thế nào?
Trung Tất Địa, tướng thế nào?
Hạ Tất Địa, tướng thế nào?
Cúi mong Đức Thế Tôn vì chúng con mà
nói khiến cho tất cả Đại Bồ Tát cùng các Trời, Người đều được thành tựu, không
còn thoái chuyển Đại Thiền Định, chứng Đạo Bồ Đề, thành Đẳng Chánh Giác.
Các Trời Người khiến nhập Niết Bàn,
vĩnh viễn ra khỏi biển sanh tử, không thọ các khổ.”
Thời Đức Phật Tỳ Lô Giá Na bảo rằng:
“Các ông nên biết, ba Bộ đều có
tướng Tất Địa: Thượng, Trung, Hạ. Mỗi một Bộ đều có ba loại Tất Địa.
Nếu có Thiện Nam Tử muốn thành tựu
Thượng Tất Địa, cần phải thanh tịnh trong ngoài.
Thanh tịnh Thân có ba, Khẩu bốn, Ý
ba.
Ba Nghiệp phải thanh tịnh, trước
tụng Thần Chú chánh, y trong Kinh đầy đủ biến số.
Lại tụng Tâm Địa Thần Chú đầy đủ
biến số.
Ở nơi kín đáo thanh tịnh, dùng tòa
cỏ sạch mà ngồi Kiết Già, đốt các loại hương thật tốt mà cúng dường.
Phát đại thệ nguyện cầu thỉnh mười
phương chư Phật, chư Đại Bồ Tát, chư Đại Kim Cang, tất cả chư Thiên chư Thánh
trong cõi U Minh làm chứng cho đệ tử….... vì muốn thọ trì Thần Chú…… Nguyện
mong Đức Thế Tôn, Bồ Tát, Kim Cang, chư Thiên …. Chứng cho con mau thành tựu.
Ba lần phát nguyện như vậy xong,
liền nhắm mắt mà ngồi.
Trước tụng Thần Chú thường trì tụng
800 biến, tự tưởng thân mình thành thân của Chú Thần.
Tất cả thân phần trang nghiêm đầy đủ
đẹp đẽ, trên thân có hào quang hay không có hào quang. Hình thế đứng- ngồi,
mừng- giận, cử động. Tất cả đều y như Kinh tả.
Tưởng như vậy xong, tưởng tự thân
mình cho thật rõ ràng.
Lại tưởng các Thần bộ lạc, Sứ Giả
trước sau cung kính vây đầy chung quanh y như trong Bản Thổ đã nói.
Quán tưởng như vậy thật rõ ràng
xong, tâm niệm Thần Chú Căn Bản 21 biến.
Mỗi biến các chữ đều có ánh sáng
phát ra nhập vào miệng các Thần.
Xong tưởng tất cả chư Thần nhập vào
miệng mình, xuống nơi tim an trí tại đó.
Như vậy, ngày ba thời, quán tưởng
cần cho rõ ràng.
Mãn 21 ngày, ngày ngày y như vậy mà
làm tất được thành tựu THƯỢNG TẤT ĐỊA.
Từ đó về sau, (y như Bổn Kinh nói) ý muốn làm các sự nghiệp không thể nghĩ bàn
đều được thành tựu.
Tất cả chỗ làm, cử động đều đồng với
Thần Chú không khác, được đại tự tại không thể nói hết.
Người tu hành tự biết lấy.
Phàm làm việc gì đều tư duy, tâm
niệm:
“Ta là Đại Thánh, là thân Tự Tại. Nay hóa làm người phàm phu
ở trong Tục Chúng, cứu khổ cho chúng sanh, khiến người không hay biết”.
Nếu muốn tu Chư Thần sai khiến Sứ
Giả, tưởng từ Tâm Vương của mình hóa làm trăm ngàn vạn Chúng trước sau vây
quanh trụ SẮC (Giáo sắc, sắc lệnh) làm mọi việc không có
chướng ngại.
Đây chẳng phải là tự lực của người
đó mà là sức của TÂM ĐỊA THẦN CHÚ hay khiến cho chư Thần và Thần Thức tự tại
hợp làm một Thể để biết.
Như thế, nếu trì Chú của Phật
Bộ (Buddha-kulāya) với Chú của Bồ Tát cầu lấy THƯỢNG TẤT ĐỊA.
Nếu trì Kim Cương thì dùng Hạ Chú
đừng chọn lấy THƯỢNG TẤT ĐỊA.
Vì sao vậy? Vì Thần Chú của Kim
Cương, chư Thiên, Dược Xoa có tính mạnh mẽ, hung ác, nếu thành tựu Thượng Tất
Địa, đắc được tự tại, cho nên chẳng sinh Từ Bi. Sẽ gây thương hại cho tất cả
Quỷ Thần.
Nếu hay khởi Đại Bi thương xót khắp
tất cả, chẳng sinh tâm gây hại, cũng chẳng giận dữ, thì có thể nhận lấy Thượng
Tất Địa.
Nếu chẳng thể như thân gìn giữ, thì
đừng làm trái ngược với lời Phật dạy kẻo bị tội lớn, nên biết như thế.
Nếu trì PHẬT ĐẢNH CHÚ (Buddhoṣṇīṣa-mantra)
được Thượng Tất Địa, tức cùng một loại với chư Phật.
Vì sao vậy? Tuy thân là Phàm Phu
nhưng tâm được tự tại, biện tại vô ngại, Trí Tuệ không bị ngăn trệ, hay làm
Thầy của Thế Gian với tất cả Trời, Người, đầy đủ Nhất Thiết Chủng Trí, tất cả
Thần Thông…. nói chẳng thể hết.
Chính vì thế, cho nên cùng với Phật
không có khác. Cho đến những việc khó nghĩ bàn, chẳng thể nói đủ thì người
chứng tự biết.
Nếu trì BỒ TÁT BỘ (Bodhisatva-kulāya)
được Thượng Tất Địa thì Bản Chú tùy trì và Bản Thuyết Chú đều là một loại với
Bồ Tát không có sai khác.
Vì sao vậy?
Đem tâm Phàm Phu này dùng vận độ với
Chú Lực của Bồ Tát trang nghiêm mọi loại phương tiện, khiến cho Phàm Phu này
được cùng một loại với tâm của Bồ Tát.
Bồ Tát có vạn hạnh nhiêu ích chúng
sanh với có Thần Thông đại tự tại, thì người trì Chú này đều được như vậy, nên
biết tức là một loại với Bồ Tát không có sai khác. Hộ trì Phật Pháp, giáng phục
các Ma.
Nếu trì KIM CANG CHÚ (Vajra-mantra)
được Thượng Tất Địa thì đồng với Bổn Chú Kim Cang thân không khác.
Vì sao vậy? Kim Cang tức là thân bất
hoại.
Người trì Chú, thân tâm cũng không
hoại, cỗ được thần thông đồng với Bổn Tôn không khác, hay hộ trì Phật Pháp,
hàng phục các Ma, khiến nhập vào Chánh Đạo.
Người trì Chú cũng được như vậy, còn
nhiều việc nữa, nói không hết được.”
Lúc bấy giờ, Bồ Tát Phổ Hiền bạch
rằng:
“Pháp Thân Thế Tôn! Trì ba Bộ Thần Chú thành
tựu được Tất Địa. Mỗi mỗi đều y Bổn Tôn không khác.
Vì sao thân Phàm Phu lại được chư
Phật Bồ Tát Kim Cang Thân ở trong phàm tục ?”
Đức Phật Tỳ Lô Giá Na bảo Bồ Tát Phổ
Hiền rằng:
“Các ông nên biết, chư Phật hóa thân làm phàm phu. Chứ không thật là
phàm phu. Người trì Chú được TẤT ĐỊA cũng giống như vậy.”
Khi đó, Văn Thù bạch Phật rằng:
“Pháp Thân Thế Tôn! Các món THƯỢNG
TẤT ĐỊA, chúng con đã rõ.
Còn Trung Tất Địa ra làm sao?
Cúi mong Thế Tôn rộng vì chúng sanh
mà nói khiến được an lạc.”
Đức Phật Tỳ Lô Giá Na dạy Văn Thù
rằng:
“Trung Tất Địa như thế này:
Tụng trì ba Bộ Chú mỗi mỗi đều y như
cách họa tượng, như trong Kinh nói. Thân phần trang nghiêm cùng các quyến
thuộc, nhất nhất phân minh.
Trước tụng biến số đầy đủ, sau đó
như trước tụng TÂM ĐỊA THẦN CHÚ cũng đầy đủ biến số.
Hoặc ở núi non, hoặc nơi đồng trống,
hoặc tại thành ấp, hoặc trong Vương Xá thành, hoặc trong phòng kín, hoặc nơi
trống trải, hoặc trong Thất…
ngồi tịnh đốt các danh hương cúng
dường chư Phật Bồ Tát Kim Cang, chư Thiên và các vị Chú Thần.
Tức sám hối các tội lỗi, phát Đại
Thệ Nguyện.
Các tội đã làm đời trước và các tội
tạo trong đời này, đem hết thân tâm mà sám hối.
Đảnh lễ Tam Bảo xong, liền ngồi Kiết
Già, tay cầm niệm châu (xâu chuỗi) nhắm mắt định tưởng, suy nghĩ đến Bổn Tôn
như tại trước mắt.
Quán tưởng cho rõ ràng đầy đủ.
Quán tưởng thành rồi, tụng Chú căn
bản 800 biến, chỉ dùng tâm niệm, không cho răng, miệng động đậy.
Mỗi biến trong chữ Chú có bạch quang
phóng ra nhập vào miệng Chú Thần không có dứt.
Trì tụng Chú xong, cần phải rõ ràng
quán tưởng ánh quang trong miệng Chú Thần không cho đoạn dứt.
Xong, lại phát thệ nguyện, tác Hương
Hoa Ấn cúng dường Bổn Tôn.
Đứng dậy lễ bái, như Pháp phụng tống
Bổn Tôn.
Ngày ba thời, đêm ba thời đều y như
vậy. Mãn hết bảy ngày tức được Trung Tất Địa.
Nếu người trì tụng ba Bộ Thần Chú
được Trung Tất Địa, thành tựu các công năng không thể nghĩ bàn y như trong Bổn
Kinh nói:
Thành tựu Phật Bộ Trung Tất Địa, ba
Bộ đều thành.
Thành tựu Bồ Tát Trung Tất Địa, các
Chú Bồ Tát đều thành, Kim Cang Bộ, cho đến chư Thiên, Dạ Xoa, Quỷ Thần đều
thành tựu.
Kim Cương Bộ thành tựu Trung Tất Địa
thì các Bộ chư Thiên, Dạ Xoa, Quỷ Thần đều thành tựu.
Bồ Tát Chú không thành tựu Phật Bộ
Chú.
Kim Cang Chú không thành tựu Bồ Tát
Chú.
Vì sao vậy?
Từ tim lên đảnh là trên hết. Từ rốn
đến tim là Trung.
Từ chân đến rốn là Hạ.
Vì thế các Pháp không thể trái
nghịch được.
Người trì Chú phải biết rõ ràng
Thượng, Trung, Hạ các Chú.
Đây là phương pháp thành tựu Trung
Tất Địa của ba Bộ Thần Chú.”
Lúc bấy giờ, Bồ Tát Quán Thế Âm bạch
rằng:
“Pháp Thân Thế Tôn! Trung Tất Địa ở
trên, chúng con đã rõ.
Còn Hạ Tất Địa như thế nào?”
Đức Phật Tỳ Lô Giá Na bảo rằng:
“Các ông nên biết. Nếu có người trì
ba Bộ Thần Chú muốn được Hạ Tất Địa.
Trước tụng biến số cho đủ và
tụng TÂM ĐỊA THẦN CHÚ như đã nói trên, đầy đủ số rồi, ngồi nơi
Tịnh Xứ, đốt An Tức Hương cúng dường, tức tụng ĐẠI LUÂN KIM CANG
ẤN 21 lần, cúi đầu bạch rằng:
“Duy nguyện Kim Cang thương xót,
giáng đến, Đệ Tử trì Chú cầu…..
Nguyện thành tựu đại nguyện.
Vì Đệ Tử nghèo cùng, không có các
món cúng dường.
Cúi mong Đại Thánh vì Đệ Tử tại nơi
này lập Mạn Đà La Đàn Pháp, mỗi mỗi đều y trong Kinh nói, không thiếu
sót”.
Nguyện như vậy xong, nhắm mắt mà
ngồi, quán tưởng Kim Cang ở trước đang tạo lập Mạn Đà La có đầy đủ các món cúng
dường.
Tưởng Đàn xong, lại tưởng bốn phía
và đất bằng đều bằng bảy báu, tức kết Thủ Ấn, thời các Bổn Chú Thần đều đến Đạo
Tràng thọ nhận cúng dường.
Tụng Căn Bản Chú 800 biến, tự phát
nguyện như vậy.
Ngày đêm sáu thời đều y như vậy. Trải
qua 14 ngày thành Hạ Tất Địa.
Quán tưởng Đạo Tràng và Đàn phải rõ
ràng, minh bạch, không được lầm lẫn.”
Đức Phật Tỳ Lô Giá Na bảo trăm ngàn
ức Hóa Thân Thích Ca Mâu Ni và năm vị Đại Bồ Tát rằng:
“Đó là tướng thành tựu ba loại Tất
Địa.
Nếu người trì tụng ba Bộ Thần Chú
được ba món Tất Địa, nên biết người này không lâu sẽ thành Phật.
Vì sao vậy? Đây là chư Phật có
phương tiện Tổng Trì Pháp Môn Thâm Diệu Cảnh Giới khó giải khó nhập, không thể
suy lường.”
Lại bảo rằng:
“Được Tất Địa, có đầy đủ Công Đức
không thể nói hết, chứng tự biết lấy.
Vì sao vậy? Nếu Ta nói đầy đủ Pháp
Môn này, hoặc có người nghe, tâm liền cuồng loạn, nghi ngờ không tin.
Vì sao vậy? Cảnh giới của chư Phật,
bậc Đẳng Giác còn không thể biết, huống nữa là phàm phu làm sao không kinh sợ
?”
Bấy giờ, Bồ Tát Phổ Hiền từ chỗ ngồi
đứng dậy, bạch rằng:
“Pháp Thân Thế Tôn! Các Đức Như Lai
lấy Đại Bi làm gốc.
Vì sao các Đà La Ni có nói đến oai
đức bạo ác tự tại làm tổn hại các Quỷ Thần và các Ngoại Đạo, Trời, A Tu La?”
Đức Phật Tỳ Lô Giá Na dạy rằng:
“Ông hãy lắng nghe! Ta sẽ vì ông mà
nói.
Có hai trường hợp:
Một là chư Phật dùng phương tiện
thuyết Pháp dẫn dắt chúng sanh. Hai là hiện thân mãnh liệt bạo ác hàng phục các
Ma, khiến vào Phật Đạo.
Ông phải nên biết, đây cũng là
phương tiện.
Người trì Chú, nếu thấy việc này,
tâm sanh giận dữ hàng phục Quỷ Thần, tức không thành Tất Địa, không được Đại
Nghiệm.
Lại không biết chư Phật phương tiện
nói ra như vậy là muốn người tu hành HÀNG PHỤC TỰ TÂM.
Các loại điên đảo vọng tưởng phiền
não, làm các việc không lành, hoặc sanh tâm của Ngạ Quỷ, hoặc sanh tâm Ngoại
Đạo, hoặc sanh tâm A Tu La, hoặc sanh tâm chư Quỷ Thần La Sát ác.
Do các việc đó luôn luôn tăng
trưởng, các thứ đó đều là các Quỷ Thần ác, Trời, A Tu La, các Ngoại Đạo ác hoặc
La Sát đều do Tâm mà ta.
Nếu không dừng lại, tức bị thọ các báo
vậy. Các Pháp có nói bẻ gãy các loại Quỷ Thần là dùng Chú Lực tiêu trừ trong
Tâm.
Tất cả các niệm ác không còn Ác
Niệm, không thọ thân ác. Đó tức là Pháp Hàng Phục vậy.
Nếu trước tự hàng phục các loại Quỷ
Thần, tâm ác thì tất cả Thiên Ma, Ngoại Đạo, Trời, A Tu La, Dạ Xoa, La Sát, các
Quỷ Thần ác tự nhiên quy phục, không dám trái nghịch.
Nếu không tự hàng phục tâm ác mà đòi
hàng phục các loài Thiên Ma, Quỷ Thần thời không bao giờ được.”
Bồ Tát Phổ Hiền lại bạch Phật rằng:
“Vì sao trong Pháp có nói trừ các bệnh khổ cho chúng sanh ?
Vì sao lại nói có chỗ không được trị
bệnh, hòa hợp các thuốc.
Việc đó thế nào?”
Đức Phật Tỳ Lô Giá Na dạy rằng:
“Trị bệnh cũng vậy, như trên không
khác.
Tự trừ tâm bệnh, mới có thể hay trừ
các bệnh. Nếu mình có bệnh lại không lo trị bệnh, mà trị người khác là điều vô
lý. Vì mình đương bệnh phải tự trị trước.
Dùng Chú Lực khiến cho họ được giải
thoát, khiến không bệnh.
Nếu tâm có bệnh không gọi là giải
thoát.
Người trì Chú nếu còn tâm bệnh, thì
không thể trừ các bệnh được.”
Bồ Tát Phổ Hiền lại bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn !
Vì sao gọi rằng nghe Đà La Ni lại tiêu trừ tội nặng, lại hay cứu khổ Địa Ngục.
Việc ấy như thế nào?”
Đức Phật Tỳ Lô Giá Na bảo rằng:
“Có hai cách: Một là Chơn
Văn, hai là Nhĩ Văn .
CHƠN VĂN là hiểu rõ Pháp Tánh, biết các Pháp như huyễn, tội
tánh cũng vậy, biết là không chỗ đắc.
Người như vậy tức gọi là CHƠN
TẤT ĐỊA, hay cứu Địa Ngục, có gì lạ đâu !
NHĨ VĂN là do các nhân duyên hòa hợp mà nghe chư Phật dùng
phương tiện này khiến cho người nghe dần dần tu tập Tự Tánh.
Do Nhân Duyên này, các tội tiêu
diệt, nương vào Phật Lực cứu khổ Địa Ngục.”
Đức Phật Tỳ Lô Giá Na lại dạy tiếp:
“Nếu người không có thể thành tựu ba
món Tất Địa, cần nên trì tụng TÂM ĐỊA THẦN CHÚ 100 vạn biến,
thì trì các Chú thường được đại nghiệm.
Người trì Chú nếu không như Pháp, sẽ
bị Bổn Chú Thần giận. Nếu tụng TÂM ĐỊA THẦN CHÚ, tự nhiên sẽ vui vẻ.”
Bấy giờ, Bồ Tát Văn Thù, Bồ Tát Quán
Thế Âm, Bồ Tát Phổ Hiền, Bồ Tát Kim Cang Tạng Vương, Bồ Tát Di Lặc đồng thanh
nói Kệ tán thán Đức Phật Tỳ Lô Giá Na rằng:
Chư Phật khó nghĩ bàn
Pháp vi diệu cũng vậy
Chúng con nay được nghe
Mới biết là sâu màu
Pháp Thân không thể nói
Báo, Ứng Thân cũng thế
Ba Thân không nói hết
Mới thật là vô ngôn
Nói hoặc không đều huyễn
Không một cũng không hai
Kẻ nghe và người nói
Thảy đều như hư huyễn
Như Huyễn không thể được
Phương tiện Phật cũng thế
[ Chư Phật nan tư nghị
Thậm thâm Pháp diệc nhĩ
Ngã kim đắc văn chi
Diệc phục tri thâm nghĩa
Pháp Thân bất thuyết thân
Báo Ứng Thân diệc nhĩ
Tam Thân câu bất thuyết
Thị danh vô thuyết nghĩa
Thuyết bất thuyết giai không
Phi nhất diệc phi nhị
Thuyết giả cập thính văn
Thử giai như huyễn nghĩa
Như Huyễn bất khả đắc
Phật phương tiện như thị ]
Các vị Bồ Tát nói Kệ xong, ngồi mà
nghe Pháp
Bồ Tát Quán Thế Âm lại bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn! Con vì người cầu TẤT
ĐỊA hoặc tại núi sâu, đồng trống, trì tụng Chú Pháp không được thành tựu, thiếu
thốn thức ăn. Do đó, thoái thất Tâm Bồ Đề. Con vì những người đó, nói CHƯ
THIÊN TRÙ THẦN CHÚ”
Liền nói Chú rằng:
“NAM MÂU HẠT LA ĐÁT NA ĐA LA NA DẠ,
XÀ LA MA HA XÀ LA,
ĐẬU LƯU MA HA ĐẬU LƯU, HỒNG,
CẤP TỐC, HA NI NHIẾP.
ÁN, CẤP TỐC, HA NI NHIẾP TỐC.”
Trước lấy nước sạch rửa bát,
để bát trên khăn sạch.
Sau đem tro sạch để dưới khăn, trên
tro để khăn. Ngậm nước phun vào bát, nhắm mắt tụng Chú 108 biến, trong tâm
tưởng THƯỢNG DIỆU THIÊN TRÙ.
Tức thời, chư Thiên sai Thiên Đồng
đem các đồ ăn rất ngon để đầy bát.
Đứng dậy, đảnh lễ Di Lặc Thế Tôn và
đảnh lễ Bồ Tát Quán Âm, tức lấy mà ăn, ăn còn đem tán thí cho các loại chúng
sanh.
Nếu có người cùng ăn cũng không hết.
Được đồ ăn này, tự nhiên chứng Tất
Địa. Đem Chú này chú vào đồ ăn uống của nhân gian 21 biến, thí cho Ngạ Quỷ ăn,
thời Ngạ Quỷ được miễn các khổ, được sanh lên Di Lặc Thiên Cung.
Nếu gặp năm đói kém mất mùa.
Dùng Chú này chú vào đồ ăn uống của
nhân gian 1080 biến rồi đem cho chúng sanh ăn cũng không hết.
Năm đói kém mất mùa, ngày 15 trăng
sáng tỏ, đốt hương, ngửa mặt lên Trời, ngó trăng, tụng Chú chú vào mặt trăng
1080 biến, niệm rằng:
“Ánh trăng chiếu khắp chúng sanh,
thảy được đầy đủ , không có đói khát”
[Nguyệt quang sở chiếu , chúng sanh
phổ đắc bảo túc, vô cơ khát tưởng].
Hoặc ngày 15, giờ Ngọ, ngó mặt trời
tụng Chú cũng được, như trước phát nguyện, mỗi ngày thường tụng Chú này, phát
nguyện rằng:
“Chư vị vua Trời, xin nguyện đem
đồ ăn còn lại cho các Thiên Thần và Ngạ Quỷ trong mười phương đều được ăn uống.
Ăn xong khiến lìa các khổ”
{Chư Thiên Vương đẳng, nguyện dĩ dư
thực, khiển chư Quỷ Thần thập phương giới sở hữu Ngạ Quỷ, phổ dữ thực chi, thực
dĩ, tiện ly bỉ khổ}
Nếu người trong ba năm, ngày ngày
không quên làm Pháp này, được rất nhiều lợi ích.
Khi bỏ thân này được sanh về Tây
Phương Tịnh Thổ.
Hiện tại trong đời được tăng lợi,
được Phước Trí, các Chú khác, Tất Địa thành tựu.”
Thời Bồ Tát Kim Cang Tạng Vương dạy
rằng:
“Các Hữu Tình! Nếu trì ba Bộ Chú
chưa được thành tựu, ít công hiệu.
Ta vì phòng hộ mà nói Chú là:
“ĐÁT ĐIỆT THA: ÁN, BẠT
CHIẾT LA, SA BÀ GIA, SA BÀ HA.”
Nếu người trì Chú tự biết bất an,
nên biết là các Quỷ TỲ NA DẠ CA (Vināyaka) gây nhiễu hại.
Tức tụng Chú này, thời Ta sẽ cùng
mười phương Tạng Vương và các quyến thuộc đi đến chỗ đó gia hộ.
Tất cả các Ma Quỷ Tỳ Na Dạ Ca sửng
sốt mà chết. Nếu chúng được sống lại,
thì liền bỏ chạy đến nơi khác, chúng không dám ở lại.”
Bấy giờ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
khen rằng:
“Lành thay! Lành thay Bồ Tát!
Các ông hay vì tất cả chúng sanh,
hỏi các việc như vậy và nói Thần Chú khiến cho các hữu tình đều được an lạc.”
Lại nói rằng:
“Các ông hãy nghe! Đây là Kinh Điển
sâu mầu. TÂM ĐỊA PHÁP MÔN mà vô lượng vô số vô biên chư Phật đã nói. Khó thấy
khó nghe.
Nếu người ở trong quá khứ vô lượng
kiếp đã từng cúng dường chư Phật, tin sâu Phật Pháp, chán ghét Thế Gian, các
khổ sinh tử, từng nghe chư Phật nói Pháp sâu mầu.
Do đó, mà nay được nghe Kinh
Điển TÂM ĐỊA PHÁP MÔN và ĐÀ LA NI này, lại tinh
cần nhất tâm đọc tụng.
Người như vậy mới gọi là Chơn Phật
Tử.
Vì sao vậy? Người này không lâu sẽ
được VÔ THƯỢNG CHÁNH ĐẲNG BỒ ĐỀ.
Nên biết Kinh này là vua trong các
Kinh.
Chú này là vua trong các Chú.
Các Đại Bồ Tát, các ông nên rộng lưu
bố trong cõi Diêm Phù Đề, ban cho chúng sanh làm lợi lạc lớn, khiến cho người
trì Chú mau được TẤT ĐỊA.”
Bấy giờ Đức Phật Tỳ Lô Giá Na dạy
rằng:
“Khi lưu bố Kinh này, trước phải coi
Căn Tánh, sau đó mới trao cho. Vì sao vậy?
Vì người Trí Tuệ nghe thì sanh lòng
tin sâu.
Người Vô Trí nghe được tất sanh sợ
sệt, lại sanh lòng nghi khiến cho họ phải chịu tội lỗi, chết đọa Địa Ngục vì
phỉ báng Kinh này và chư Phật, nên phải chịu quả báo như vậy.”
Khi nói Kinh này, thời Chúng Hội
không nghe được, vì nói tại Thanh Tịnh Pháp Giới.
Lúc đó, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và
năm vị Đại Bồ Tát đảnh lễ Đức Phật TỲ LÔ GIÁ NA xong, thì lui trở lại nơi gốc
Bồ Đề tại cõi Diêm Phù, vì chúng sanh mà nói Pháp.
Sau khi diệt độ, thời phó chúc cho
năm vị Đại Bồ Tát lưu bố nơi Đời.
Vì các Thanh Văn không nghe Phật
nói, thấy các Bồ Tát lưu bố Kinh này, nên sanh tâm nghi ngờ, không tin, không
ưa.
Khi ấy, Bồ Tát Quán Thế Âm bảo rằng:
“Này các ông Thanh Văn! Kinh này
không phải là cảnh giới mà các ông biết được.
Đây là Đức Phật Tỳ Lô Giá Na, ngàn
trăm ức Hóa Thân Phật Thích Ca Mâu Ni cùng các Đại Bồ Tát nói.
Do đó không phải là chỗ hiểu biết
của các ông”
Các Đại Chúng nghe xong thảy đều nhỏ
lệ, khen chưa từng có.
Sau đó, Đại Chúng hoan hỷ tin nhận,
làm lễ rồi lui ra.
TỲ
LÔ GIÁ NA PHẬT BIỆT HẠNH KINH
Vairocanabhisambodhi sutra
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét