Thứ Ba, 31 tháng 1, 2023

Phổ Hiền, phẩm 39- Nhập pháp giới, kinh Hoa Nghiêm

 

Thiện Tài thưa:

 

Bạch vâng! Những sự thần thông quảng đại bất tư nghì nầy chỉ đức Như Lai mới biết được.

 

Phổ Hiền Bồ tát nói:

 

Này thiện nam tử! Thuở quá khứ bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số kiếp, ta thực hành “Bồ Tát hạnh” cầu Nhứt Thiết Trí.

 

Trong mỗi mỗi kiếp, vì muốn thanh tịnh Bồ đề tâm, nên kính thờ bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số Phật.

 

Trong mỗi mỗi kiếp, vì tích tập Nhứt thiết trí phước đức, nên thiết lập bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số thí hội quảng đại, khiến tất cả thế gian đều nghe biết. Phàm ai đến cầu xin thì đều làm cho họ đầy đủ cả.

 

Trong mỗi mỗi kiếp, vì cầu pháp Nhứt Thiết Trí, nên ta đem bất khả thuyết, bất khả thuyết Phật sát vi trần số tài vật bố thí.

 

Trong mỗi mỗi kiếp, vì cầu Phật trí, nên ta đem bất khả thuyết, bất khả thuyết Phật sát vi trần số thành ấp, tụ lạc, quốc độ, vương vị, thê tử, quyến thuộc, mắt tai mũi lưỡi, thân, thịt, tay chân đến cả mạng sống để bố thí.

 

Trong mỗi mỗi kiếp, vì cầu Nhứt thiết trí thủ, nên ta đem bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số đầu để bố thí.

 

Trong mỗi mỗi kiếp, vì cầu Nhứt thiết trí, nên ở chỗ bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số Như Lai, ta cung kính tôn trọng, kính thờ cúng dường, rồi xuất gia học đạo, trong Phật pháp tu hành hộ giáo.

 

Này thiện nam tử! Ta ở trong những số kiếp như vậy, tự nhớ chưa từng có một niệm chẳng thuận Phật giáo; chưa từng có một niệm sanh lòng sân hại.

 

Cũng chưa từng có một niệm sanh tâm ngã ngã sở, tâm mình người sai biệt, tâm xa rời Bồ Đề, tâm nhàm mỏi sanh tử, tâm lười biếng, tâm chướng ngại, tâm mê hoặc…

Mà ta chỉ an trụ tâm Đại Bồ Đề Vô Thượng chẳng thể trở hoại tích tập pháp trợ đạo Nhứt Thiết Trí.

 

Này thiện nam tử! Ta trang nghiêm Phật độ, dùng tâm đại bi cứu hộ chúng sanh, giáo hóa thành tựu, cúng dường chư Phật, thờ thiện tri thức, vì cầu chánh pháp nên hoằng tuyên hộ trì, trong thân ngoài vật đều có thể xả tất cả, đến mạng sống cũng không tiếc.

 

Nếu dùng thời gian kiếp hải để nói nhân duyên đó, kiếp hải còn có thể hết chớ nhân duyên đó không cùng tận.


Nầy thiện nam tử! Trong pháp hải của ta, không có một chữ, không có một câu. Chẳng phải thí xả ngôi Chuyển Luân Vương mà cầu được. Chẳng phải thí xả tất cả sở hữu mà cầu được.


Nầy thiện nam tử! Pháp của ta cầu đều vì cứu hộ tất cả chúng sanh. Một lòng suy nghĩ mong cho chúng sanh được nghe pháp nầy. 


Nguyện dùng trí quang chiếu khắp thế gian. Nguyện vì chúng sanh mà khai thị trí xuất thế gian. Nguyện cho chúng sanh đều được an lạc. Nguyện khắp tán dương những công đức của chư Phật.

 

Thuở xưa, nhơn duyên của ta như vậy, trong bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số kiếp hải nói không hết được.


Này thiện nam tử! Vì thế nên ta dùng sức trợ đạo pháp như vậy, những sức thiện căn, sức đại chí nguyện, sức tu công đức, sức như thiệt tư duy tất cả pháp, sức trí huệ nhãn, sức Phật oai thần, sức đại từ bi, sức tịnh thần thông, sức thiện tri thức như vậy, nên ta được pháp thân thanh tịnh tam thế bình đẳng rốt ráo này. 


Ta lại được sắc thân thanh tịnh vô thượng siêu các thế gian, tùy sở thích của tâm chúng sanh mà hiện hình vào tất cả cõi khắp tất cả xứ, nơi các thế giới rộng hiện thần thông, làm cho người thấy đều vui mừng.

 

Này thiện nam tử! Ngươi quan sát sắc thân của ta như vậy. Sắc thân của ta đây đã thành tựu từ vô biên kiếp hải. Vô lượng ngàn ức na do tha kiếp khó thấy, khó nghe.

 

Này thiện nam tử! Nếu có chúng sanh chưa gieo thiện căn và gieo ít thiện căn, Thanh Văn, Bồ tát thì còn chẳng được nghe danh hiệu của ta huống là thấy được thân ta.

 

Này thiện nam tử! Nếu có chúng sanh được nghe danh hiệu của ta, thì không còn thối chuyển nơi Vô thượng Bồ đề.

 

Nếu ai hoặc thấy, hoặc chạm, hoặc rước, hoặc đưa, hoặc tạm theo dõi, nhẫn đến trong mộng được thấy nghe ta, thì đều cũng được bất thối chuyển cả.

 

 Hoặc có chúng sanh một ngày một đêm nhớ nghĩ đến ta, thì liền được thành thục.

 

Hoặc bảy ngày bảy đêm, nửa tháng, một tháng, nửa năm, một năm, trăm năm, ngàn năm, một kiếp, trăm kiếp, nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số kiếp, nghĩ nhớ đến ta mà được thành thục.

 

Hoặc một đời, hoặc trăm đời, nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số đời, nghĩ nhớ đến ta mà thành thục.

 

Hoặc thấy ta phóng đại quang minh, hoặc thấy ta chấn động cõi Phật, hoặc sanh e sợ, hoặc sanh hoan hỷ thảy đều thành thục.

 

Nầy thiện nam tử! Ta dùng Phật sát vi trần số môn phương tiện như vậy, làm cho các chúng sanh chẳng thối chuyển nơi Vô thượng Bồ đề.

 

Nếu có chúng sanh nào thấy nghe cõi thanh tịnh của ta, thì tất được sanh trong cõi thanh tịnh nầy.

 

Nếu có chúng sanh nào thấy nghe thân thanh tịnh của ta, thì tất được sanh trong thân thanh tịnh của ta.

 

Nầy thiện nam tử! Ngươi nên quan sát thân thanh tịnh của ta đây.











Chủ Nhật, 29 tháng 1, 2023

Hải Vân Tỳ kheo, phẩm 39, kinh Hoa Nghiêm

Thiện Tài đồng tử đi lần qua phương Nam đến nước Hải Môn, đến chỗ Hải Vân Tỳ kheo, đảnh lễ chân Hải Vân, hữu nhiễu xong, chắp tay bạch rằng:

Bạch đức thánh! Tôi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, muốn nhập tất cả trí hải vô thượng, mà chưa biết Bồ tát thế nào có thể bỏ nhà thế tục sanh vào nhà Như Lai? Thế nào có thể qua khỏi biển sanh tử vào được biển Phật trí? Thế nào lìa được hàng phàm phu vào được hàng Như Lai? Thế nào dứt được dòng sanh tử vào được dòng Bồ tát hạnh? Thế nào phá được xe sanh tử thành xe Bồ tát nguyện? Thế nào diệt được cảnh giới ma hiển được cảnh giới Phật? Thế nào cạn được biển ái dục thêm lớn biển đại bi? Thế nào đóng được cửa các nạn các ác đạo mở được cửa đại Niết bàn? Thế nào ra khỏi thành tam giới vào được thành Nhứt thiết trí? Thế nào vất bỏ được tất cả vật ngoạn hảo để đem lợi ích tất cả chúng sanh?

Hải Vân Tỳ kheo bảo Thiện Tài đồng tử rằng:

-Thiện nam tử! Người đã phát tâm Vô thượng Bồ đề rồi ư?

Thiện Tài thưa: - Vâng, tôi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Hải Vân Tỳ kheo nói: - Thiện nam tử ! Nếu các chúng sanh chẳng gieo lành thời chẳng có thể phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Cần phải được phổ môn thiện căn quang minh, đủ chơn thiệt đạo Tam ma địa trí quang. Xuất sanh những phước hải quảng đại, tăng trưởng pháp bạch tịnh không có lười nghỉ. Thờ thiện trí thức chẳng mỏi nhàm, chẳng kể thân mạng, không thề cất chứa. Tâm bình đẳng như mặt đất không có niệm cao hạ. Tánh thường từ mẫn với tất cả chúng sanh, nơi các loài sanh tử chuyên niệm chẳng bỏ, hàng thích quán sát cảnh giới Như Lai.

Có như vậy mới phát được tâm Vô Thượng Bồ Đề.

Phát BỒ ĐỀ TÂM là phát tâm đại bi, vì cứu khắp tất cả chúng sanh. Là phát tâm đại từ,vì khắp giúp tất cả thế gian.

Là phát tâm an lạc, vì làm cho tất cả chúng sanh diệt tất cả khổ. Phát tâm lợi ích, vì làm cho tất cả chúng sanh lìa ác pháp.

Phát tâm ai mẫn, vì có ai kinh sợ thời đều giữ gìn. Phát tâm vô ngại, vì rời bỏ tất cả chướng ngại.

Phát tâm quảng đại, vì tất cả Pháp giới đều đầy khắp.

Phát tâm vô biên, vì khắp cõi hư không đều qua đến.

Phát tâm rộng rãi, vì đều thấy tất cả Như Lai.

 Phát tâm thanh tịnh, vì trí không trái với pháp tam thế.

Phát tâm trí huệ, vì vào khắp biển nhứt thiết trí huệ.

Này Thiện nam tử! Ta ở nước Hải Môn này đã mười hai năm, thường dùng đại hải làm cảnh giới.

Những là suy gẫm đại hải quảng đại vô lượng.

Suy gẫm đại hải rất sâu khó lường.

Suy gẫm đại hải lần lần sâu rộng.

Suy gẫm đại hải vô lượng châu báu kỳ diệu trang nghiêm.

Suy gẫm đại hải chứa vô lượng nước.

Suy gẫm đại hải màu nước chẳng đồng không thể nghĩ bàn.

Suy gẫm đại hải là chỗ ở vô lượng chúng sanh.

Suy gẫm đại hải dung thọ những chúng sanh thân to lớn.

Suy gẫm đại hải nạp thọ được nước của trận mưa lớn.

Suy gẫm đại hải không tăng không giảm.

Này Thiện nam tử! Lúc suy gẫm như vậy, ta lại nghĩ rằng:

Trong thế gian còn có gì rộng lớn hơn đại hải này chăng?

Còn có gì vô lượng hơn đại hải này chăng?

Còn có gì rất sâu hơn đại hải này chẳng?

Còn có gì báu lạ hơn đại hải này chăng?

Này Thiện nam tử! Lúc ta suy gẫm như vậy, bỗng có đại liên hoa xuất hiện.

Liên hoa này cọng bằng vô năng thắng nhơn Đà la ni la bửu, cánh bằng phệ lưu ly bửu, lá bằng vàng diêm phù đàn, đài bằng trầm thủy, tua bằng mã não, nở thơm lan khắp trùm che cả đại hải.

Trăm vạn A tu la Vương cầm lấy cọng hoa.

Trăm vạn châu ma ni kết lưới trang nghiêm giăng che trên hoa.

Trăm vạn Long Vương mưa nước thơm.

Trăm vạn Ca lâu la Vương ngậm những chuỗi ngọc và dải lụa báu rủ thòng bốn phía.

Trăm vạn La Sát Vương từ tâm quán sát. Trăm vạn Dạ xoa Vương cung kính đảnh lễ.

Trăm vạn Càn thát bà Vương nhiều thứ âm nhạc tán thán cúng dường.

Trăm vạn Thiên vương mưa những thiên hoa, Thiên man, thiên hương, thiên thiêu hương, thiên đồ hương, thiên mạt hương, thiên y phục , thiên tràng, thiên phan, thiên cái.

Trăm vạn Phạm Vương đảnh lễ và cung kính.

Trăm vạn Tịnh Cư Thiên chắp tay làm lễ.

Trăm vạn Chuyển Luân Vương cúng dường thất bửu trang nghiêm.

Trăm vạn Hải Thần đồng xuất hiện cung kính đảnh lễ.

Trăm vạn vị quang ma ni bửu quang minh chiếu khắp.

Trăm vạn tịnh phước ma ni bửu dùng để trang nghiêm.

Trăm vạn phổ quang ma ni bửu làm tạng thanh tịnh.

Trăm vạn thù thắng ma ni bửu ánh sáng rực rỡ.

Trăm vạn diệu tạng ma ni bửu quang chiếu vô biên.

Trăm vạn diêm phù đàn ma ni bửu thứ đệ bày hàng.

Trăm vạn kim cang sư tử ma ni bửu chẳng thể phá hoại thanh tịnh trang nghiêm.

Trăm vạn nhật tạng ma ni bửu quảng đại thanh tịnh.

Trăm vạn khả lạc ma ni bửu đủ mọi màu.

Trăm vạn như ý ma ni bửu trang nghiêm vô tận, quang minh chiếu rực.

Liên hoa lớn này có ra là do thiện căn xuất thế của Như Lai.

Tất cả Bồ tát đều sanh lòng tin mến.

thập phương thế giới đều hiện tiền.

Từ như huyễn pháp mà sanh, như mộng pháp mà sanh, thanh tịnh nghiệp mà sanh. Trang nghiêm bằng Pháp môn vô tránh.

Nhập ấn vô vi. Trụ môn vô ngại.

Sung mãn tất cả quốc độ mười phương.

Tùy thuận cảnh giới thậm thâm của chư Phật.

Trong vô số trong ngàn kiếp ca ngợi công đức đó cũng không hết được.

Lúc đó ta thấy trên liên hoa lớn ấy có một đức Như Lai ngồi kết già. Thân Phật từ đây cao đến trời Hữu Đảnh.

Tòa bửu liên hoa bất tư nghì.

Đạo tràng chúng hội bất tư nghì.

Những tướng hảo thành tựu bất tư nghì.

Tùy hảo viên mãn bất tư nghì. Thần thông biến hóa bất tư nghì.

Sắc tướng thanh tịnh bất tư nghì.

Vô kiến đảnh tướng bất tư nghì. Tướng lưỡi rộng dài bất tư nghì.

Ngôn thuyết thiện xảo bất tư nghì.

Âm thanh viên mãn bất tư nghì. Lực vô biên tế bất tư nghì.

Thanh tịnh vô úy bất tư nghì. Biện tài quảng đại bất tư nghì.

Ta lại nghĩ nhớ Đức Phật đó thuở xưa tu hành bất tư nghì.

Tự tại thành đạo bất tư nghì.

Diệu âm diễn pháp bất tư nghì.

Phổ môn thị hiện các thứ trang nghiêm bất tư nghì.

Tùy hai bên thấy Phật đều sai khác bất tư nghì.

Tất cả sự lợi ích đều làm cho viên mãn bất tư nghì.

Lúc đó, đức Như Lai ấy liền đưa tay hữu rờ đảnh đầu của ta, vì ta mà diễn nói phổ nhãn Pháp môn, khai thị cảnh giới tất cả Như Lai, hiển pháp tất cả hạnh Bồ tát, xiển minh tất cả diệu pháp của chư Phật, tất cả pháp luân đều nhập trong đó. Có thể thanh tịnh tất cả Phật độ. Có thể dẹp tất cả dị đạo tà luận. Có thể diệt tất cả quân ma. Có thể làm cho chúng sanh đều sanh hoan hỷ. Có thể soi tất cả tâm hành của các chúng sanh. Có thể biết những căn cơ của tất cả chúng sanh, tùy tâm chúng sanh đều làm cho được khai ngộ.

Ở nơi đức Như Lai ấy, ta được nghe Pháp môn này, thọ trì đọc tụng ghi nhớ quán sát.

Giả sử có người dùng nước mực nhiều như nước đại hải, cây viết chất đống lớn như núi Tu Di, biên chép Pháp môn phổ nhãn này, một môn trong một phẩm, một pháp trong một môn, một nghĩa trong một pháp, một câu trong một nghĩa cũng viết chẳng được ít phần huống là có thể viết hết

Này Thiện nam tử! Ở nơi Đức Phật ấy, ta thọ trì Pháp môn phổ nhãn như vậy trọn một ngàn hai trăm năm.

Trong mỗi ngày, ta dùng văn trì Đà la ni quang minh lãnh thọ vô số phẩm.

Dùng tịch tịnh môn Đà la ni quang minh xu nhập vô số phẩm.

Dùng vô biên triền Đà la ni quang minh vào khắp vô số phẩm.

Dùng tùy tha quán sát Đà la ni quang minh phân biệt vô số phẩm .

Dùng oai lực Đà la ni quang minh nhiếp khắp vô số phẩm. dùng liên hoa trang nghiêm Đà la ni quang minh dẫn phát vô số phẩm. Dùng thanh tịnh ngôn âm Đà la ni quang minh khai diễn vô số phẩm.

Dùng hư không tạng Đà la ni quang minh hiển thị vô số phẩm.

Dùng quang tụ đà ni quang minh thêm rộng vô số phẩm.

Dùng hải tạng Đà la ni quang minh luận biện phân tích vô số phẩm.

Nếu có chúng sanh từ mười phương đến, hoặc Thiên, hoặc Thiên Vương, hoặc Long, hoặc Long Vương, hoặc Dạ xoa, hoặc Dạ xoa Vương, hoặc Càn thát bà, hoặc Càn thát bà Vương, hoặc A tu la, hoặc A tu la Vương, hoặc Ca lâu la, hoặc Ca lâu la Vương, hoặc Khẩn Na la, hoặc Khẩn na laVương, hoặc Ma hầu la dà, hoặc Ma hầu la dà Vương, hoặc Nhơn, hoặc Nhơn Vương, hoặc Phạm hoặc Phạm Vương.

Tất cả đại chúng như vậy đều đến chỗ ta. Ta đều vì họ mà khai thị giải thích xưng dương tán thán.

Đều làm cho họ mến thích xu nhập an trụ quang minh phổ nhãn Pháp môn này.

Này Thiện nam tử! Ta chỉ biết phổ nhãn Pháp môn này.

Như chư Đại Bồ tát thâm nhập tất cả Bồ tát hạnh hải, vì tùy duyên nguyện lực mà tu hành.

Nhập đại nguyện hải vì ở thế gian trong vô lượng kiếp số.

Nhập tất cả chúng sanh hải, vì tùy tâm sở thích của họ để rộng lợi ích.

Nhập nhứt thiết chúng sanh tâm hải, vì xuất sanh thập phương vô ngại trí quang.

Nhập nhứt thiết chúng sanh căn hải, vì đáng tùy cơ nghi giáo hóa đều làm cho điều phục.

Nhập tất cả sát hải, vì thành mãn bổn nguyện nghiêm tịnh Phật độ.

Nhập tất cả Phật hải, vì nguyện thường cúng dường chư Như Lai.

Nhập tất cả pháp hải, vì có thể dùng trí huệ đều ngộ nhập. Nhập tất cả công đức hải, vì mỗi mỗi tu hành cho được đầy đủ.

Nhập tất cả chúng sanh ngôn từ hải, vì ở tất cả cả cõi chuyển Chánh pháp luân.

Như thế thời ta làm sao biết được nói được công đức hạnh đó.


--------

At that time, the bhikshu Sea Cloud asked the Youth Good Wealth,


"Good man, have you already brought forth the resolve for anuttarasamyaksambodhi?"

Good Wealth answered, "Yes, I have brought forth the resolve for anuttarasamyaksambodhi.”

Sea Cloud said, "Good Man, if living beings have not planted good roots, they cannot bring forth the resolve for anuttarasamyaksambodhi.

One must obtain the light of good roots of the door to universality, become replete with the samadhi wisdom-light of the true path, give rise to various vast and great seas of blessings, and nurture pristine and pure dharmas without laziness or resting.

One must serve GOOD KNOWING ADVISORS -thiện tri thức-without becoming tired or satiated.

One must disregard one's body and life.

One must not conceal or hoard. One's mind must be level, like the earth, without ups or downs.

One's nature must always compassionately pity all living beings. With concentrated mindfulness, one must never forsake all destinies of existence. One must constantly take delight in contemplating the Thus Come Ones’ states. In such a way one can bring forth the Bodhi resolve.

"As for bringing forth the bodhi resolve:

It means one brings forth a great, compassionate mind, in order to universally save all beings. One brings forth a great kind mind, in order to equally protect all worlds. One brings forth a tranquil and happy mind, in order to cause all beings to destroy their sufferings. One brings forth a mind of beneficence, in order to cause all beings to separate from evil dharmas. One brings forth a sympathetic mind, in order to guard all those who are afraid. One brings forth an unobstructed mind, in order to leave behind all obstructions. One brings forth a vast, great mind, in order to pervade all Dharma realms. One brings forth a boundless mind, because one is equal to the realm of empty space, and there is nowhere one does not go. One brings forth a broad, extensive mind, because one sees all Thus Come Ones. One brings forth a pure mind, because one does not contradict the wisdom of the dharmas of the three periods of time. One brings forth the mind of All-Wisdom, because one universally enters the seas of All-Wisdom.

"Good man, I have lived in this country, Gate of the Sea, for twelve years.

I have always regarded the sea as my state. Specifically, I have pondered how the great sea is vast and extensive without measure. I have pondered how the great sea is profoundly deep and hard to fathom. I have pondered the gradual deepening and widening of the great sea. I have pondered the limitless, rare, wonderful and adorned jewels within the great sea. I have pondered the immeasurable amount of water that is gathered by the great sea. I have pondered the inconceivability of the different colors of the water in the great sea.

I have pondered the great sea as the dwelling place for limitless living creatures. I have pondered how the great sea encompasses the various beings with large bodies. I have pondered how the great sea receives the rain that the large clouds pour down. I have pondered how the great sea is without increase or decrease.

"Good man, when I was contemplating I also had this thought: Within this world, is there anything more broad and extensive than this sea? Is there anything more immeasurable than this sea? Is there anything deeper than this sea? Is there anything more rare and special than this sea?

"Good man, at the moment I was having that thought, suddenly from the depths of the sea, a large lotus flower emerged. Invincible indra-nila jewels made up the stem. Vaidurya gems formed its calyx. Jambunada gold made up its leaves.  Sinking-in-water incense made up its platform. Carnelian formed its fine filaments. It bloomed with a lush fragrance that covered the sea.

"A million asura kings upheld its stem. A million nets adorned with mani jewels hovered above it. A million dragon kings rained down fragrant water upon it. A million garuda kings dangled from their beaks strings of beads and jeweled silk ribbons, which hung down all around it. A million rakshasa kings contemplated it with a mind of kindness. A million yaksha kings bowed to it with reverence. A million gandharva kings praised it with all sorts of music as offerings. A million heavenly kings rained down heavenly flowers, heavenly garlands, heavenly fragrances, heavenly burning incense, heavenly paste incense, heavenly powdered incense, wonderful heavenly robes, heavenly banners, streamers, and canopies. A million Brahma kings bowed in reverence. A million gods from the Pure Dwelling Heavens placed their palms together and made obeisance. A million wheel-turning kings each made offerings of adornments of the seven jewels.

“A million sea spirits appeared simultaneously, and respectfully bowed. A million light-flavor mani jewels universally illumined. A million pure blessings mani jewels formed an adornment. A million universal light mani jewels served as its pure treasury.

“There were a million supreme mani jewels, their light radiant and dazzling. There were a million wonderful treasury mani jewels, their light radiating infinitely.  There were a million jambu banner mani jewels, successively arranged in rows. There were a million vajra lion mani jewels, indestructible, pure, and adorning.

There were a million sun treasury mani jewels, vast, great, and pure. There were a million delightful mani jewels, replete with various colors. There were a million as-you-will mani jewels, their adornments endless, their effulgence dazzling.

“This great lotus flower was born from the transcendental good roots of the Thus Come Ones’ appearances in the world, and was a source of faith and rejoicing for all Bodhisattvas. Within the ten directions’ worlds, there was no place where it did not appear. It was born from dharmas that are like an illusion. It was born from dharmas that are like a dream. It was born from pure karma. It was adorned by the dharma-door of non-contention. It entered the seal of the unconditioned.

It dwelt in the door of non-obstruction. It filled up all countries of the ten directions. It complied with the most profound states of the Buddhas. Throughout countless hundreds of thousands of kalpas, its merit and virtue could not be praised to exhaustion.

“At that time, I saw atop the lotus flower a Thus Come One seated in full lotus. His body extended all the way up to the Summit of Existence. His jeweled lotus flower throne was inconceivable. His Way-places and assembly were inconceivable. The accomplishment of his marks was inconceivable. The perfection of his minor characteristics was inconceivable. His spiritual penetrations and transformations were inconceivable. The purity of his physical characteristics was inconceivable. The mark of his invisible crown was inconceivable. His vast and long tongue was inconceivable. His good and clever speech was inconceivable. The full and resonant sounds of his voice were inconceivable. His boundless powers were inconceivable. His pure fearlessnesses were inconceivable. His vast, great eloquences were inconceivable.

“Moreover, I recollected that the conducts this Buddha had cultivated in the past were inconceivable; that his accomplishments of the Way with self-mastery were inconceivable; that the wonderful voices with which he proclaimed Dharma were inconceivable; that his universal door of manifesting all sorts of adornments was inconceivable; that everything around him was inconceivable, each singularly distinctive to look at; that his perfection of all benefits was inconceivable.

“At that time, the Thus Come One stretched out his right hand and rubbed me on the crown and spoke for me the Universal Eye dharma-door. It revealed the states of all Thus Come Ones. It disclosed and expounded all conducts of all Bodhisattvas. It explained the wonderful dharmas of all Buddhas. All wheels of dharma entered within it. It could purify all Buddha countries. It could defeat all heterodox ways and deviant theories. It could destroy all demon armies. It could cause all living beings to be happy. It could illuminate the workings of activity in all beings’ minds. It could understand the faculties of all beings. According to living beings’ hearts, it could cause them to become enlightened.

"From the place of that Thus Come One, I heard of this dharma-door. I received, upheld, and recited it. I mindfully recollected it, and held it in contemplation. If someone used as much ink as there is water in the great seas and a stack of pens as high as Mount Sumeru to write out this Universal Eye dharma-door, he would not express the slightest fraction of a single door within a single chapter, or a single dharma within a single door, or a single meaning within a single dharma, or a single phrase within a single meaning. How much the less would he be able to thoroughly exhaust it!

"Good man, I have lived at that Buddha's place for twelve hundred years, receiving and upholding this Universal Eye dharma-door. Day after day, through the dharanibrightness of Listening and Holding, I receive countless chapters, through the dharani brightness of the door of Quiet Stillness, I enter countless chapters. Through the dharani brightness of Boundless Revolvings, I universally enter countless chapters. Through the dharani brightness of Contemplation According to the Grounds, I discriminate countless chapters. Through the dharani brightness of Awesome Power, I universally gather in countless chapters. Through the dharani brightness of Lotus Flower Adornments, I discover countless chapters. Through the dharani brightness of the Sounds of Pure Words, I proclaim countless chapters. Through the dharani brightness of the Treasury of Empty Space, I manifest countless chapters. Through the dharani brightness of Accumulated Radiance, I increase and expand countless chapters. Through the dharani brightness of the Treasury of Seas, I expound and analyze countless chapters.

"If living beings arrive from the ten directions, whether gods or heavenly kings, dragons or dragon kings, yakshas or yaksha kings, gandharvas or gandharva kings, asuras or asura kings, garudas or garuda kings, kinnaras or kinnara kings, mahoragas or mahoraga kings, humans or human kings, brahmas or brahma kingsfor all these beings who come to where I am, I give thorough instruction, explanation, exaltation, and praise. I cause them all to delight in, enter into, and dwell securely in this Universal Eye dharma-door of the light of all Buddhas’ and Bodhisattvas' conducts.

"Good man, I only know this Universal Eye dharma-door. But as to how all Bodhisattvas, Mahasattvas deeply enter the sea of all Bodhisattva conducts, in order to follow their vow power in cultivation; how they enter the sea of great vows, in order to dwell for limitless kalpas in the world; how they enter the sea of all living beings, in accord with their minds’ delights, so as vastly benefit them; how they enter the sea of all living beings’ hearts, in order to bring forth unobstructed wisdom light of the Ten Powers; how they enter the sea of all living beings' faculties, in order to teach and transform them at the opportune time and make them all tamed and subdued; how they enter the sea of all kshetras, in order to fulfill their original vows to adorn and purify Buddha kshetras; how they enter the sea of all Buddhas, because they have vowed to forever make offerings to all Thus Come Ones; how they enter the sea of all dharmas, because they can enlighten to all of them through wisdom; how they enter the sea of all merits and virtues, in order to cultivate each one of them to perfection; how they enter the sea of all living beings' languages and words, in order, within all kshetras, to turn the Proper Dharma Wheel—how could I possibly know or speak of such conduct of merit and virtue?

"Good man, travel to the south for sixty yojanas. Along the road to Lanka, there is a village called Seashore. There is a bhikshu there called Good Dwelling. Go there and ask him how one purifies the Bodhisattva conduct."

At that time, the Youth Good Wealth bowed at the feet of Sea Cloud, circumambulated him to the right, gazed up in admiration at him, bade farewell and took his leave.














Chủ Nhật, 22 tháng 1, 2023

vô sanh pháp nhẫn, phẩm 29, kinh Hoa Nghiêm

ANUTPATTIKA-DHARMA-KSANTI:

 

“Disciples of the Buddha, what constitutes the Bodhisattva Mahasattva’s Patience with the State of Mind in which No Mental Objects Arise (Anutpattika-dharma-kṣānti)?

 

Disciples of the Buddha, this Bodhisattva Mahasattva perceives neither the slightest dharma coming into being, nor the slightest dharma ceasing to be.

 

Why is this?

 

Where there is no coming into being, there is no ceasing to be.

 

Where there is no ceasing to be, there is no reaching an end.

 

Where there is no reaching an end, there is freedom from defilement.

 

Where there is freedom from defilement, there is no discrimination.

 

Where there is no discrimination, there is no attachment to a location.

 

Where there is no attachment to a location, there is tranquility.

 

Where there is tranquility, there is renouncing of desires.

 

Where there is renouncing of desires, there is absence of effort.

 

Where there is effortlessness, there is no longing.

 

Where there is no longing, there is no residing.

 

Where there is no residing, there is no going or coming.

 

This is called Patience with the State of Mind in which No Mental Objects Arise, the third kind of patience of a Bodhisattva Mahasattva.”

 

--

 

*Chapter 29: “THE TEN PATIENCES”

 

-Avatamsaka sutra

 

==

 

Chư Phật tử! Thế nào là đại Bồ Tát VÔ SANH PHÁP NHẪN?

 

Ðại Bồ Tát nầy chẳng thấy có chút pháp nào sanh, cũng chẳng thấy có chút pháp nào diệt.

 

 Tại sao vậy? Vì nếu đã vô sanh thời vô diệt.

 

Nếu đã vô diệt thì vô tận.

 

Nếu vô tận thời ly cấu.

 

Nếu ly cấu thời vô sai biệt.

 

Nếu vô sai biệt thời vô xứ sở.

 

 Nếu vô xứ sở thời tịch tịnh. Nếu tịch tịnh thời ly dục.

 

 Nếu ly dục thời vô tác. Nếu vô tác thời vô nguyện.

 

Nếu vô nguyện thời vô trụ. Nếu vô trụ thời vô khứ vô lai.

 

Ðây gọi là thứ ba, vô sanh pháp nhẫn của đại Bồ Tát.

 

==

 

kinh Hoa Nghiêm,

phẩm 29: Thập Nhẫn