Chủ Nhật, 7 tháng 3, 2021

Trích từ Kinh lăng Nghiêm

 THE ARISING AND CESSATION OF THE FIVE SKANDHAS

Ananda then arose from his seat. Having heard the Buddha’s instruction, he bowed and respectfully upheld it, remembering every word and forgetting none.
Then once more in the great assembly he spoke to the Buddha, “The Buddha has told us that in the manifestation of the five skandhas, there are five kinds of falseness that come from our own thinking minds.
We have never before been blessed with such subtle and wonderful instructions as the Tathagata has now given.
Further, are these FIVE SKANDHAS destroyed all at the same time, or are they extinguished in sequence?
What are the boundaries of these five layers?
We only hope the Tathagata, out of great compassion, will explain this in order to purify the eyes and illuminate the minds of those in the great assembly, and in order to serve as eyes for living beings of the future.”
The Buddha told Ananda, “The essential, true, wonderful brightness and perfect purity of basic enlightenment does not ADMIT BIRTH AND DEATH, nor any MUNDANE DEFILEMENTS, nor even empty space itself.
All these are brought forth because of false thinking.
The source of basic enlightenment, which is wonderfully bright, true, and pure, falsely gives rise to the material world, just as YAJNADATTA became confused about his head when he saw his own reflection.
The FALSENESS basically has no CAUSE, but in your false thinking, you set up causes and conditions.
But those who are confused about the principle of causes and conditions call it spontaneity.
Even empty space is an illusory creation; how much the more so are causes and conditions and spontaneity, which are mere speculations made by the false minds of living beings.
Ananda, if you perceive the arising of falseness, you can speak of the causes and conditions of that falseness.
But if the falseness has no source, you will have to say that the causes and conditions of that falseness basically have no source.
How much the more is this the case for those who fail to understand this and advocate spontaneity.
Therefore, the Tathagata has explained to you that the fundamental cause of all five skandhas is false thinking.
Your body’s initial cause was a thought on the part of your parents.
But if you had not entertained any thought in your own mind, you would not have been born. Life is perpetuated by means of thought.
As I have said before, when you call to mind the taste of vinegar, your mouth waters.
When you think of walking along a precipice, the soles of your feet tingle.
Since the precipice doesn’t exist and there isn’t any vinegar, how could your mouth water at the mere mention of vinegar, if it were not the case that your body originated from falseness?
Therefore, you should know that your present physical body is brought about by the first kind of false thinking, which is characterized by solidity.
As described earlier, merely thinking about a high place can cause your body to tingle and ache.
Due to that cause, feelings arise and affect your body, so that at present you pursue pleasant feelings and are repelled by unpleasant feelings.
These two kinds of feelings that compel you are brought about by the second kind of false thinking, which is characterized by illusory clarity.
Once your thoughts arise, they can control your body.
Since your body is not the same as your thoughts, why is it that your body follows your thoughts and engages in every sort of grasping at objects?
A thought arises, and the body grasps at things in response to the thought.
When you are awake, your mind thinks.
When you are asleep, you dream.
Thus your thinking is stirred to perceive false situations.
This is the third kind of false thinking, which is characterized by interconnectedness.
The metabolic processes never stop; they progress through subtle changes:
your nails and hair grow, your energy wanes, and your skin becomes wrinkled.
These processes continue day and night, and yet you never wake up to them.
If these things aren’t part of you, Ananda, then why does your body keep changing?
And if they are really part of you, then why aren’t you aware of them?
Your formations skandha continues in thought after thought without cease.
It is the fourth kind of false thinking, which is subtle and hidden.
Finally, if your pure, bright, clear, and unmoving state is permanent, then there should be no seeing, hearing, awareness, or knowing in your body.
If it is genuinely pure and true, it should not contain habits or falseness.
How does it happen, then, that having seen some unusual thing in the past, you eventually forget it over time, until neither memory nor forgetfulness of it remain;
but then later, upon suddenly seeing that unusual thing again, you remember it clearly from before without forgetting a single detail?
How can you keep track of the permeation that goes on in thought after thought in this pure, clear, and unmoving consciousness?
Ananda, you should know that this state of clarity is not real. It is like rapidly flowing water that appears to be still on the surface.
Due to its speed you cannot perceive the flow, but that does not mean it is not flowing.
If this were not the source of thinking, then how could one be subject to false habits?
If you do not open and unite your six sense faculties so that they function interchangeably, this false thinking will never cease.
That’s why your seeing, hearing, awareness, and knowing are presently strung together by subtle habits, so that within the profound clarity, existence and nonexistence are both unreal.
This is the fifth kind of upside-down, minutely subtle thinking.
Ananda, these five skandhas of reception develop with five kinds of false thinking.
You also wanted to know the depth and scope of each realm.
Form and emptiness are the boundaries of form.
Contact and separation are the boundaries of feeling.
Remembering and forgetting are the boundaries of thinking.
Destruction and production are the boundaries of formations.
Deep purity entering to unite with deep purity belongs to the boundaries of consciousness.
At their source, these five skandhas arise in layers.
Their arising is due to consciousness, while their cessation begins with the elimination of form.
You may have a sudden awakening to the principle, at which point they all simultaneously vanish.
But in terms of the specifics, they are eliminated not all at once, but in sequence.
I have already shown you the knots tied in the Karpasa cloth.
What is it that you do not understand, that causes you to ask about it again?
You should gain a thorough understanding of the origin of this false thinking and then transmit your understanding to cultivators in the future Dharma-ending Age.
Let them recognize this falseness and naturally give rise to deep disdain for it.
Let them know of Nirvana so that they will not linger in the Triple Realm.
*Chapter 10
=SURANGAMA SUTRA=
-----
LÝ TUY ĐỐN NGỘ, SỰ PHẢI TIỆM TRỪ
A-Nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, nghe lời dạy của Đức Phật, đảnh lễ kính vâng, ghi nhớ không sót. Ở trong đại chúng lại bạch Phật rằng: “Như Đức Phật dạy, trong tướng ngũ ấm có năm thứ hư vọng, vốn có cội gốc là tâm vọng tưởng.
Chúng con bình thường chưa từng được được nghe lời khai thị vi diệu của Như Lai,
Lại nữa, NĂM THỨ ẤM này được tiêu trừ một lần hay lần lượt theo từng thứ lớp. Giới hạn của năm lớp ấy là gì?
Xin nguyện Như Lai, mở lòng đại từ, làm cho tâm và mắt của đại chúng đây được trong sáng, để làm đạo nhãn tương lai cho hết thảy chúng sinh trong đời mạt pháp.
Đức Phật bảo A-Nan: tánh tinh chân là diệu minh, tánh bản giác là viên tịnh, không lưu lại sinh tử và các trần cấu, cho đến cả hư không, đều nhân vọng tưởng mà sinh khởi ra.
Tất cả cái ấy, gốc nơi bản giác diệu minh chân tánh, do vọng tưởng mà phát sinh khí thế gian, như Diễn-nhã-đạt-đamê đầu mà nhận bóng.
Vọng vốn không có nhân, ở trong vọng tưởng mà lập ra tánh nhân duyên, mê tánh nhân duyên thì gọi đó là tự nhiên. Cả tánh hư không kia cũng sinh ra từ huyễn hóa, nên nhân duyên, tự nhiên đều là suy lường từ vọng tâm chúng sanh.
A-Nan, đã biết do vọng sanh khởi ra, mà nói nhân duyên vọng. Nếu vọng vốn không thì nhân duyên vọng đó vốn là chẳng có. Huống gì những người không biết, cho đó là tự nhiên.
Thế nên Như Lai giải bày cho các ông rõ bổn nhân của ngũ ấm đều là vọng tưởng.
Thân thể của ông, trước là nhân cái tưởng của cha mẹ mà sanh ra. Tâm ông nếu không có một niệm tưởng nào, thì ông chẳng đến gá mạng vào nơi tưởng.
Như trước đây Như Lai đã nói, khi tâm tưởng đến vị chua, thì trong miệng tiết ra nước bọt, khi tâm tưởng đang leo cao thì lòng bàn chân cảm thấy rờn rợn, mà dốc cao chẳng có, vị chua cũng không thấy, thân thể của ông chẳng phải cùng loại với hư vọng, tại sao khi nghe nói đến vị chua thì nước bọt trong miệng tiết ra?
Vậy ông nên biết, sắc thân hiện nay của ông,
Như Lai đã nói trước đây, khi tâm ông tưởng đến một nơi cao là thân có cảm giác rờn rợn.
Do các thứ cảm thọ sanh khởi, nó tác động đến sắc thân. Nên hiện nay, hai thứ cảm thuận ích và vi tổn đang thúc bách thân ông. Đó là là vọng tưởng hư minh thứ hai.
Do những ý nghĩ sai sử thân ông, nếu thân ông không cùng dạng với niệm tưởng, sao lại theo vọng tưởng nắm bắt mọi thứ hình tượng, sanh tâm chấp giữ, cùng niệm tưởng tương ưng?
Khi thức là tưởng tâm, khi ngủ là chiêm bao, nên niệm tưởng lay động vọng tình của ông. Đó gọi là dung thông vọng tưởng thứ ba.
Chuyển hóa không ngừng, xoay vần âm thầm dời đổi. Móng tay và tóc dài ra, khí lực suy tàn, da mặt nhăn nheo. Thay đổi ngày đêm, thế mà ông không hề thức tỉnh.
A-Nan, nếu những thứ này chẳng phải là ông, tại sao thân ông lại biến đổi? Nếu chắc thật là ông, sao ông không biết?
Ắt là hành ấm của ông tương tục không dừng trong mỗi niệm. Đó là vọng tưởng thứ tư, tánh chất là vi tế và ẩn mật.
Lại chỗ tinh minh lóng lặng, không dao động của ông, gọi là là thường còn, thì nơi thân ông, chẳng ra ngoài sự thấy nghe, hiểu biết. Nếu nó thật sự là tánh chân, thì đã không dung chứa tập khí
Do đâu mà các ông, trong những năm trước đã từng thấy vật lạ, trải qua nhiều năm, chẳng để ý đến; rồi sau bỗng dưng, thấy lại vật lạ đó, liền nhớ rõ ràng, không hề thiếu sót? Vậy trong tánh tinh minh đứng lặng, trọn không dao động ấy, đã chịu sự huân tập trong từng niệm, đâu có trù tánh gì?
A-Nan nên biết trạng thái trong lặng ấy là không thực, như dòng nước chảy nhanh, xa trông như đứng lặng, do chảy nhanh mà không thấy được, chứ không phải là nước không chảy. Nếu đây không phải là cội gốc của vọng tưởng, cớ sao lại bị huân tập bởi tập khí hư vọng?
Nếu sáu căn của ông chưa được khai hợp, dùng thay lẫn nhau, thì cái vọng tưởng ấy không khi nào diệt trừ được.
Cho nên hiện nay, cái thấy nghe hiểu biết của ông đã xâu kết trong tập khí hư vọng. Ắt trong tánh rỗng lặng trong suốt ấy, là cái vọng tưởng điên đảo vi tế, rỗng không huyễn hóa thứ năm
A-Nan, năm loại ấm này là do năm vọng tưởng tạo thành.
Nay ông muốn biết giới hạn sâu cạn, chỉ có sắc và không là biên giới của sắc ấm, xúc và ly là biên giới của thọ ấm , nhớ và quên là biên giới của tưởng ấm , diệt và sinh là biên giới của hành ấm , đứng lặng và hiệp với đứng lặng thuộc về biên giới của thức ấm .
Năm ấm này vốn sinh khởi trùng điệp. Sinh, do thức ấm mà có. Diệt, từ sắc ấm mà trừ. Lý tức ngộ liền, nhân ngộ mà tiêu trừ sạch. Sự thì chẳng phải trừ được ngay, mà phải theo thứ lớp mới dứt được.
Như Lai đã chỉ cho ông về những gút nơi khăn kiếp-ba-la. Có điều gì chưa hiểu rõ khiến ông lại hỏi?
Ông nên đem sự thông hiểu cội nguồn của vọng tưởng này, truyền dạy cho người tu hành đời sau trong thời mạt pháp, khiến cho họ nhận ra được hư vọng, tự thấy nhàm chán, biết có niết-bàn, để không luyến tiếc ba cõi.
*Chương 10
- KINH LĂNG NGHIÊM-
==========
Ananda, you should know that when the good person has obtained proper knowledge in his practice of SHAMATHA, his mind is unmoving, clear, and proper, and it cannot be disturbed by the TEN KINDS OF DEMONS FROM THE HEAVENS.
He is now able to intently and thoroughly investigate the origin of all categories of beings.
As the origin of each category becomes apparent, he can contemplate the source of the subtle, fleeting, and pervasive fluctuation.
But if he begins to speculate on that pervasive source, he could fall into error with TWO THEORIES OF THE ABSENCE OF CAUSE.
FIRST perhaps this person sees NO CAUSE for the ORIGIN OF LIFE.
Why? Since he has completely destroyed the mechanism of production, he can, by means of the eight hundred merits of the eye organ, see all beings in the swirling flow of karma during eighty thousand eons, dying in one place and being reborn in another as they undergo transmigration.
But he cannot see beyond eighty thousand eons.
Therefore, he concludes that for the last eighty thousand eons living beings in the ten directions of this and other worlds have come into being without any cause.
Because of this speculation, he will lose proper and pervasive knowledge, fall into externalism, and become confused about the Bodhi nature.
SECOND, perhaps this person SEES NO CAUSE FOR THE END OF LIFE.
And why?
Since he perceives the origin of life, he believes that people are always born as people and birds are always born as birds;
that crows have always been black and swans have always been white;
that humans and gods have always stood upright and animals have always walked on four legs;
that whiteness does not come from being washed and blackness does not come from being dyed;
And that there have never been nor will there be any changes for eighty thousand eons.
He says, ‘As I now examine to the end of this life, I find the same holds true.
In fact, I have never seen Bodhi, so how can there be such a thing as the attainment of Bodhi?
You should now realize that there is no cause for the existence of any phenomena.’
Because of this speculation, he will lose proper and pervasive knowledge, fall into externalism, and become confused about the Bodhi nature.
This is the first external teaching, which postulates the absence of cause.
*Chapter 10
=SURANGAMA SUTRA=
------------
A-Nan, nên biết, các thiện nam tử ấy đã được sự nhận biết chân chính trong khi tu xa-ma-tha , chánh tâm ngưng lặng, sáng suốt, không bị quấy phá bởi MƯỜI LOẠI THIÊN MA.
Trong lúc nghiên cứu tinh vi cùng tột gốc của các loại chúng sanh, khi thấy manh mối sinh diệt của các loại hiện ra, quán xét cội gốc thường chuyển động lăng xăng cùng khắp u ẩn kia, trong đó lại khởi tâm so đo chấp là tánh viên nguyên, thì liền rơi vào hai thứ luận vô nhân.
Một là, người ấy thấy CÁI GỐC không có NHÂN.
Vì sao? Vì người ấy đã hoàn toàn chuyển hóa cơ chế của sự sinh ra.
Nhờ tám trăm công đức của nhãn căn, thấy được toàn bộ chúng sanh theo vòng nghiệp báo mà xoay vần trong tám vạn kiếp, chết nơi này sanh nơi kia.
Thấy chúng sanh luân hồi trong đó, nhưng ngoài tám mươi ngàn kiếp thì không biết được gì.
Do vậy hành giả có kiến giải rằng, những loại chúng sanh trong mười phương thế giới này từ tám vạn kiếp trở lại, hiện hữu mà không có nguyên nhân.
Do sự suy đoán này, nên mất chánh biến tri, bị lạc vào ngoại đạo, trở nên mê lầm tánh bồ-đề.
Thứ hai là người ấy thấy CÁI NGỌN là không có NGUYÊN NHÂN. Tại sao?
Vì đã nhận ra cội gốc sinh diệt. Biết loài người luôn luôn sanh ra người, chim luôn luôn sanh ra chim.
Quạ vốn xưa nay là đen, chim hộc vốn xưa nay là trắng. Loài người, loài trời luôn luôn đứng thẳng, loài vật luôn luôn có thân nằm ngang.
Sắc trắng không do rửa mà thành, mầu đen không do nhuộm mà có. Suốt tám vạn kiếp việc ấy không hề thay đổi.
Cho đến hết đời này cũng như vậy. Mà ta từ xưa nay, chưa từng thấy có gì là bồ-đề, thì làm sao có chuyện thành tựu bồ-đề?
Các ông ngày nay nên biết, các vật tượng hiện hữu đều không có nguyên nhân.
Do sự suy đoán như vậy, người ấy đánh mất chánh biến tri, lạc vào ngoại đạo trở nên mê mờ tánh bồ-đề.
Đây gọi là ngoại đạo thứ nhất, lập nên luận thuyết vô nhân.
*Quyển 10
=Kinh Lăng Nghiêm=
======
Ananda, you should know that in the DHARMA-ENDING AGE, these ten kinds of demons may leave the home-life to cultivate the Way within my Dharma.
They may possess other people, or they may manifest themselves in various forms.
All of them will claim that they have already accomplished PROPER AND PERVASIVE KNOWLEDGE AND AWARENESS.
THEY PRAISE LUST AND BREAK THE BUDDHA’S MORAL PRECEPTS.
The evil demonic teachers and their demonic disciples that I just discussed transmit their teaching through licentious activity.
Such deviant spirits take over cultivators’ minds, and after as few as nine lives or as many as a hundred generations, they turn true practitioners entirely into followers of demons.
When their lives are over, they are bound to end up as one of the demonic hordes.
They will lose their proper and pervasive knowledge and fall into the Relentless Hells.
You need not enter Nirvana yet.
Although you are completing your attainment to the level beyond study, hold nonetheless to your vows to enter the Dharma-ending Age.
Bring forth great compassion to rescue and take across living beings who have proper minds and deep faith.
Do not let them become possessed by demons.
Help them instead to attain proper knowledge and views.
I have already rescued you from birth and death.
By venerating the Buddha’s words, you will be repaying the Buddha’s kindness.
Ananda, all ten of these states may occur in dhyana as one’s mental effort interacts with the thinking skandha.
Dull and confused living beings do not evaluate themselves.
Encountering such situations, in their confusion they fail to recognize them and say that they have become sages, thereby uttering a great lie.
They will fall into the Relentless Hells.
In the Dharma-ending Age, after my Nirvana, all of you should pass on the Tathagata’s teachings, so that all living beings can awaken to their meaning.
Do not let the demons of the heavens have their way.
Offer protection so that all can realize the unsurpassed Way.
*chapter 9
=SURANGAMA SUTRA=
--------
A-Nan nên biết, trong thời mạt pháp mười thứ ma ấy, hoặc xuất gia tu tập theo giáo pháp của Như Lai, hoặc chúng gá vào thân người, hoặc tự biến thành nhiều dạng khác nhau.
Chúng đều tự xưng đã thành bậc chánh biến tri.
Chúng nó khen ngợi dâm dục, phá luật nghi của Phật chế.
Thầy trò ma truyền dạy nhau về dâm dục.
Tinh thần tà vạy như thế, mê hoặc tâm ý người tu hành, trải qua ít nhất chín đời, nhiều thì cả trăm thế hệ.
Khiến kẻ chân tu đều rơi vào quyến thuộc của ma.
Sau khi chấm dứt mạng sống, ắt phải đọa làm dân của ma. Đánh mất chánh biến tri, và đọa vào địa ngục vô gián.
A-Nan, ông nay chưa nên vội vào niết-bàn, dù ông đã đạt được quả vị vô học. Hãy lưu giữ lời nguyện đi vào cõi đời mạt pháp kia, phát lòng đại bi cứu độ các chúng sanh có lòng tin chân chánh sâu xa, khiến cho họ không mắc vào tà ma, giúp cho họ có được chánh tri kiến. Nay Như Lai đã giúp ông thoát ra khỏi sinh tử. Nay ông vâng lời Phật dạy, đó gọi là báo ơn Phật.
A-Nan, mười cảnh giới hiện ra trong thiền định như thế, đều do tưởng ấm và tâm dụng công giao xen.
Chúng sinh ngu mê, không biết lượng sức mình, gặp nhân duyên đó, mê không tự biết, còn nói đã chứng thánh, thành tội đại vọng ngữ, phải đọa vào địa ngục vô gián.
Vào thời mạt pháp, sau khi Như Lai nhập niết-bàn, các ông cần phải đem lời dạy của Như Lai chỉ bày cho chúng sinh, khiến cho họ được tỏ ngộ nghĩa đó. Đừng để cho thiên ma có dịp quấy phá. Phải giữ gìn, che chở cho chúng sanh thành đạo vô thượng.
quyển 9
= kinh Lăng nghiêm
===
Further, in the unhindered clarity and wonder that ensues after the feeling skandha is gone, this good person is untroubled by any deviant mental state and experiences perfect, bright concentration.
Within SAMADHI, his mind craves to know the origins of things, so he exhaustively investigates the nature of physical things and their changes from beginning to end.
He intensifies the keenness of his thoughts as he greedily seeks to analyze things.
At that time. a demon from the heavens seizes the opportunity it has been waiting for. Its spirit possesses another person and uses him as a mouthpiece to expound the Sutras and the Dharma.
This person, unaware that he is possessed by a demon, claims he has reached unsurpassed Nirvana.
When he comes to see that good person who seeks to know the origins of things, he arranges a seat and speaks the Dharma.
His body has an awesome spiritual quality which subdues the seeker.
He makes the minds of those gathered beside his seat spontaneously compliant, even before they have heard the Dharma.
He says to all those people that the Buddha’s Nirvana, Bodhi, and Dharma-body are there before them in the form of his own physical body.
He says, ‘The successive begetting of fathers and sons from generation to generation is itself the Dharma-body, which is permanent and never-ending.
What you see right now are those very Buddhalands. There are no other pure dwellings or golden features.’
Those people believe and accept his words, forgetting their initial resolve.
They offer up their lives, feeling they have obtained something unprecedented. They are all beguiled and confused into thinking he is a Bodhisattva.
As they pursue his ideas, they break the Buddha’s moral precepts and covertly indulge their greedy desires.
He is fond of saying that the eyes, ears, nose, and tongue are the Pure Land, and that the male and female organs are the true place of Bodhi and Nirvana.
Ignorant people believe these filthy words.
This is a poisonous ghost or an evil paralysis ghost that in its old age has become a demon.
It disturbs and confuses the good person. But when it tires of doing so, it will leave the other person’s body.
Then both the disciples and the teacher will get in trouble with the law.
You should be aware of this in advance and not get caught up in the cycle of transmigration.
If you are confused and do not understand, you will fall into the Relentless Hells.
*Chapter 9
=SURANGAMA SUTRA=
-----------
24. 4.THAM CẦU SỰ HIỂU BIẾT
Lại nữa thiện nam tử kia, thụ ấm đã hư diệu, không mắc các tà lự, tánh viên định phát minh.
Trong tam-ma-địa, tâm ưa thích được biết nguồn gốc của các sự vật, nên cứu xét cùng tột bản chất của sự vật cùng sự biến hóa từ gốc đến ngọn. Niệm tưởng tinh ròng bén nhạy do vì tham cầu phân tích rõ sự vật.
Lúc đó thiên ma có được cơ hội thuận tiện. Phóng tinh thần nó đến gá vào người khác, dùng miệng người bị gá giảng nói kinh pháp.
Người này không biết mình bị ma gá vào, lại còn cho mình đã được vô thượng niết-bàn.
Ma liền đến gặp người mong cầu biết cội nguồn sự vật kia, nó trải tòa ngồi thuyết pháp.
Thân nó có oai thần hàng phục được người cầu pháp, khiến cho thính chúng tự nhiên kính phục dù chưa nghe pháp.
Nó nói bồ-đề, niết-bàn, pháp thân của Phật đều là thân xác thịt hiện tiền.
Nó nói: “Cha con cùng sinh ra nhau từ đời này đến đời khác chính là pháp thân thường trụ không mất.
Tất cả đều chỉ là hiện tại, đó chính là cõi Phật, chẳng có cõi Tịnh cư riêng biệt nào, và cũng chẳng có thân tướng sắc vàng nào cả.
Người ấy tin vào những điều ma nói, bỏ mất tín tâm ban đầu, đem hết thân mạng mình quy y với ma, cảm thấy được việc chưa từng có.
Ngu mê tự cho mình là Bồ Tát. Theo đuổi ảo tưởng như vậy, nên phá hủy luật nghi của Phật chế, lén lút làm việc tham dục.
Ma thường ưa nói: mắt, tai, mũi, lưỡi đều là tịnh độ; nam căn, nữ căn, đích thật là bồ-đề, niết-bàn.
Bọn người vô tri kia đều tin lời nói dơ bẩn ấy.
Đây là giống quỷ cổ độc và quỷ ác thắng, tuổi già thành ma, quấy rối người tu hành.
Đến khi nhàm chán, nó rời khỏi thân người đã gá vào. Khi ấy cả thầy và trò đều sa vào lưới pháp luật.
Các ông nên giác ngộ sớm để khỏi bị luân hồi. Nếu mê lầm không biết, sẽ rơi vào địa ngục vô gián.
*Quyển 9
= KINH LĂNG NGHIÊM=
====
You are still not aware of the subtle demonic events that can occur when you cultivate SHAMATHA and VIPASHYANA.
If you cannot recognize a demonic state when it appears, it is because the cleansing of your MIND has not been proper.
You will then be engulfed by deviant views.
You may be troubled by a demon from your own skandhas or a demon from the heavens.
Or you may be possessed by a ghost or spirit, or you may encounter a li ghost or a mei ghost.
If your mind is not clear, you will mistake a thief for your own son.
It is also possible to feel satisfied after a small accomplishment, like the Unlearned Bhikshu who reached the Fourth Dhyana and claimed that he had realized sagehood.
When his celestial reward ended and the signs of decay appeared, he slandered Arhatship as being subject to birth and death, and thus he fell into the Avichi Hell.
You should pay attention. I will now explain this for you in detail.
Ananda stood up and, with the others in the assembly who had More to Learn, bowed joyfully.
They quieted themselves in order to listen to the compassionate instruction.
The Buddha told Ananda and the whole assembly, “You should know that the twelve categories of beings in this world of outflows are endowed with a wonderfully bright, fundamental enlightenment – the enlightened, perfect substance of the mind which is not different from that of the Buddhas of the ten directions.
Due to the fault of false thinking and confusion about the truth, infatuation arises and makes your confusion all pervasive. Consequently, an emptiness appears.
Worlds come into being as that confusion is ceaselessly transformed.
Therefore, the lands that are not without outflows, as numerous as motes of dust throughout the ten directions, are all created as a result of confusion, dullness, and false thinking.
You should know that the space created in your mind is like a wisp of cloud that dots the vast sky.
How much smaller must all the worlds within that space be!
If even one person among you finds the truth and returns to the source, then all of space in the ten directions is obliterated.
How could the worlds within that space fail to be destroyed as well?
  • Chapter 9
= Surangama sutra=
-------
Do các ông vẫn còn chưa biết những ma sự nhỏ nhiệm xảy ra lúc tu chỉ và quán . Nếu các ông không nhận ra ma cảnh khi nó hiện ra là do việc thanh tịnh tâm ý của ông không đúng với pháp chân thật, nên bị rơi vào tà kiến.
Ông sẽ bị quấy nhiễu bởi một loài ma từ ngũ ấm của ông. Hoặc là thiên ma, hoặc bị dính mắc bởi quỷ thần, hoặc gặp loài ly, mỵ. Nếu tâm ông không sáng suốt, ông sẽ nhận lầm kẻ giặc làm con mình.
Lại nữa, do trong khi tu tập, cảm thấy hài lòng, thỏa mãn khi có chút ít thành quả. Như tỷ-khưu Vô Văn , đã đạt được Tứ thiền, vọng ngôn cho rằng mình đã chứng Thánh. Khi phước báo ở cõi trời hết, tướng suy xuất hiện, nên phỉ báng rằng chứng quả A La Hán còn phải chịu sanh tử. Ông liền đoạ vào địa ngục a-tỳ.
Các ông nên lắng nghe kỹ. Như Lai sẽ giảng giải chi tiết cho các ông.
A-Nan đứng dậy, cùng hàng hữu học trong chúng hội vui mừng đảnh lễ, im lặng lắng nghe lời chỉ dạy từ bi của Đức Phật.
Đức Phật bảo ngài A-Nan và mọi người trong chúng hội: Các ông nên biết, mười hai loại chúng sanh trong thế giới hữu lậu đều vốn có bản tâm sáng suốt nhiệm mầu, là tâm thể giác ngộ trọn vẹn, không khác tâm thể mười phương chư Phật.
Do ông vọng tưởng, mê mờ chân lý nên phát sinh si ái, khiến gây ra mê lầm cùng khắp, nên có hư không. Cái mê biến hóa không dừng nên có thế giới. Do vậy, các cõi nước nhiều như vi trần trong mười phương chẳng phải là vô lậu, đều dựng lập nên từ mê muội, vọng tưởng.
Nên biết hư không sanh trong tâm ông ví như phiến mây điểm trên nền trời xanh.
Huống nữa là các cõi nước ở trong hư không thì nhỏ đến cỡ nào?
Nếu chỉ có một người trong các ông phát minh chân lý và quay về bổn tánh, thì mười phương hư không đều tiêu mất.
Làm sao các cõi hư không kia lại không bị hủy diệt?
  • Quyển 9
= Kinh Lăng Nghiêm=
=====
When you cultivate dhyana and attain samadhi, your mind tallies with the minds of the Bodhisattvas and the great Arhats of the ten directions who are free of outflows, and you abide in a state of profound purity.
All the kings of demons, the ghosts and spirits, and the ordinary gods see their palaces collapse for no apparent reason.
The earth quakes, and all the creatures in the water, on the land, and in the air, without exception, are frightened.
Yet ordinary people who are sunk in dim confusion remain unaware of these changes.
All these beings have five kinds of spiritual powers; they lack only freedom from outflows, because they are still attached to worldly passions.
How could they allow you to destroy their palaces? That is why the ghosts, spirits, celestial demons, sprites, and goblins come to disturb you when you are in samadhi.
Although these demons possess tremendous enmity, they are in the grip of their worldly passions, while you are within wonderful enlightenment.
They cannot affect you any more than a blowing wind can affect light or a knife can cut through water.
You are like boiling water, while the demons are like solid ice which, in the presence of heat, soon melts away.
Since they rely exclusively on spiritual powers, they are like mere guests.
They can succeed in their destructiveness through your mind, which is the host of the five skandhas. If the host becomes confused, the guests will be able to do as they please.
When you are in dhyana, awakened, aware, and free of delusion, their demonic deeds can do nothing to you.
As the skandhas dissolve, you enter the light.
All those deviant hordes depend upon dark energy.
Since light can destroy darkness, they would be destroyed if they drew near you.
How could they dare linger and try to disrupt your dhyana-samadhi?
If you were not clear and aware, but were confused by the skandhas, then you, Ananda, would surely become one of the demons; you would turn into a demonic being.
Your encounter with Matangi’s daughter was a minor incident.
She cast a spell on you to make you break the Buddha’s moral precepts.
Still, among the eighty thousand modes of conduct, you violated only one precept.
Because your mind was pure, all was not lost.
This would be an attempt to completely destroy your precious enlightenment.
Were it to succeed, you would become like the family of a senior government official who is suddenly exiled;
His family wanders, bereft and alone, with no one to pity or rescue them.
*CHAPTER 9
= SURANGAMA SUTRA=
-----------
Các ông tu thiền, đạt được chánh định.
Tâm ông thông suốt, hợp với tâm của chư vị Bồ Tát, và các vị vô lậu đại A La Hán trong mười phương đã an trụ trong trạng thái vắng lặng.
Tất cả ma vương, cùng các loài quỷ thần, các cõi trời phàm phu đều thấy cung điện của mình vô cớ bị tiêu hủy, đất đai rung động, các loài thủy lục không hành thảy đều kinh sợ. Hàng phàm phu mê muội thì chẳng hay biết những biến động này.
Các loài sinh vật ấy đều có năm thứ thần thông, trừ lậu tận thông, đương luyến tiếc cảnh trần lao.
Làm sao nó chịu để cho các ông phá hoại chỗ ở của nó?
Vậy nên các loài quỷ thần, thiên ma, ly mị, võng lượng, yêu tinh… trong khi ông tu pháp tam-muội, chúng đều muốn đến phá ông.
Các loài ma ấy tuy có oai lực lớn, nhưng vẫn còn ở trong trần lao.
Trong khi ông ở trong tánh giác vi diệu, ma chẳng ảnh hưởng gì đến ông, như gió thổi chẳng làm lay động ánh sáng, hoặc như dao chẳng cắt được nước.
Ông như nước sôi, trong khi ma vương giống như tảng băng, khi gần hơi nóng, băng sẽ tiêu tan.
Chúng nó dựa vào ma lực, nhưng đó chỉ là khách thôi!
Nó có thể phá rối được, là do người chủ của ngũ ấm trong tâm ông. Nếu chủ nhân mê lầm thì khách mới được dịp quấy phá.
Khi trong thiền định, sáng suốt không mê lầm, thì các ma sự kia không làm gì được ông.
Khi năm ấm tiêu trừ, ông có thể nhập vào bản tánh sáng suốt, mà tà ma kia đều nương vào ám khí.
Do sáng phá được tối, nên bọn chúng sẽ bị tiêu hủy khi đến gần ông. Sao còn dám đến gần ông để phá rối thiền định?
Nếu không tỏ ngộ sáng suốt, bị Ngũ Ấm ngăn che, mê lầm thì chính Ông Anan là con của Ma và thành người Ma.
Như ông gặp nạn Ma-đăng-già, là việc nhỏ nhặt. Cô ta dùng chú thuật bắt ông phá hủy luật nghi của Phật.
Nó mong trong số tám vạn bốn ngàn tế hạnh, ông chỉ hủy phạm một giới. Nhưng vì tâm ông thanh tịnh nên không bị chìm đắm.
Đây là nỗ lực muốn phá hoại hoàn toàn sự giác ngộ quý báu của ông.
Ông sẽ như quan Tể tướng bỗng nhiên bị truất quyền, gia đình ông ta trở nên bơ vơ, tuyệt vọng không ai thương xót cứu giúp.
*Quyển 9
=KINH LĂNG NGHIÊM= ========
The Buddha told Ananda, “All Buddhas, Tathagatas, speak words which are not false.
There might be another person who had personally committed the four major offenses and the ten parajikas so that, in an instant he would have to pass through the Avichi Hells in this world and other worlds, until he had passed through all the Relentless Hells in the ten directions without exception.
And yet if he could explain this Dharma-door for just the space of a thought to those in the Dharma-ending Age who have not yet studied it, his obstacles from offenses would be eradicated in response to that thought, and all the hells where he was to undergo suffering would become lands of peace and bliss.
The blessings he would obtain would surpass those of the person previously mentioned by hundreds of thousands of millions of billions of times, indeed by so many times that no calculations or analogies could express it.
Ananda, if living beings are able to recite this Sutra and uphold this mantra, I could not describe in endless eons how great the benefits will be.
Rely on the teaching I have spoken. Cultivate in accord with it, and you will directly realize Bodhi without encountering demonic karma.”
When the Buddha finished speaking this Sutra, the Bhikshus, Bhikshunis, Upasakas, Upasikas, and all the gods, humans, and asuras in this world, as well as all the Bodhisattvas, those of the Two Vehicles, sages, immortals, and pure youths in other directions, and the mighty ghosts and spirits of initial resolve all felt elated, made obeisance, and withdrew.
*LAST CHAPTER
=SURANGAMA SUTRA=
========
Đức Phật bảo A-Nan: chư Phật Như Lai không nói lời hư vọng. Ví như có người phạm bốn tội lớn, mười tội ba-la-di , giây lát phải trải qua địa ngục A-tì ở phương này rồi phương khác, cho đến cùng tột vô số các địa ngục vô gián trong mười phương mà không nơi nào chẳng phải trải qua.
Nếu người này, dùng một niệm, đem pháp môn này khai thị cho người chưa học trong đời mạt pháp, thì những tội chướng của người ấy liền được tiêu diệt. Biến cái nhân phải chịu khổ địa ngục thành cõi nước an lạc.
Được phước đức vượt hơn người ấy thí cúng trước kia gấp trăm, ngàn, triệu, ức lần. Như thế cho đến toán số thí dụ cũng không thể diễn tả hết được.
A-Nan, nếu có chúng sanh biết tụng kinh, biết trì niệm thần chú này, dù Như Lai có nói đến cùng tận số kiếp cũng không hết được. Nếu theo lời chỉ dạy của Như Lai, y theo lời dạy mà tu hành, thì thẳng đến đạo bồ-đề, không bị các ma nghiệp.
Khi Đức Phật nói kinh này rồi, các vị tỷ-khưu, tỷ-khưu-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, các loài trời, người, a-tu-la trong thế gian. Cùng các vị Bồ Tát, hàng Nhị thừa, Thánh, Tiên, Đồng tử ở các cõi khác, cùng với loại Đại lực quỷ thần mới phát tâm, tất cả đều hoan hỷ đảnh lễ rồi lui ra.
-QUYỂN CUỐI
=KINH LĂNG NGHIÊM=
===
MIRACULOUS OF THE MANTRA SURANGAMA
.........
Moreover, Ananda, if women who do not HAVE CHILDREN and want to conceive can sincerely memorize and recite this mantra or carry the mantra, Syi Dan Dwo Bwo Da La, on their bodies, they can GIVE BIRTH TO SONS OR DAUGHTERS endowed with blessings, virtue, and wisdom.
Those who seek LONG LIFE will obtain long life. Those who seek to quickly PERFECT THEIR REWARD will quickly gain perfection.
The same is true for those who seek something regarding their bodies, their lives, their appearance, or their strength.
At the end of their lives, they will gain the rebirth they hope for in whichever of the countries of the ten directions they wish.
They certainly will not be born in poorly endowed places, or as inferior people; even less will they be reborn in some odd form.
Ananda, if there is famine or plague in a country, province, or village, or if perhaps there are armed troops, brigands, invasions, war, or any other kind of local threat or danger, one can write out this spiritual mantra and place it on the four city gates, or on a chaitya or on a dhvaja, and instruct all the people of the country to gaze upon the mantra, to make obeisance to it, to revere it, and to single-mindedly make offerings to it; one can instruct all the citizens to wear it on their bodies or to place it in their homes; and then all such disasters and calamities will completely disappear.
Ananda, in each and every country where the people accord with this mantra, the heavenly dragons are delighted, the winds and rains are seasonal, the crops are abundant, and the people are peaceful and happy.
It can also suppress all evil stars which may appear in any of the directions and transform themselves in uncanny ways.
Calamities and obstructions will not arise. People will not die accidentally or unexpectedly, nor will they be bound by fetters, cangues, or locks.
Day and night they will be at peace, and no evil dreams will disturb their sleep.
Ananda, this Saha World has eighty-four thousand changeable and disastrous evil stars.
Twenty-eight great evil stars are the leaders, and of these, eight great evil stars are the rulers.
They take various shapes, and when they appear in the world they bring disaster and weird happenings upon living beings.
But they will all be eradicated wherever there is the mantra. The boundaries will be secured for twelve yojanas around, and no evil calamity or misfortune will ever enter in.
Therefore, the Thus Come One proclaims this mantra as one which will protect those of the future who have just begun to study, as well as all cultivators, so that they can enter samadhi, be peaceful in body and mind, and attain great tranquility.
Even less will any demon, ghost, or spirit, or any enemy, calamity, or misfortune due from former lives that reach back to beginningless time, or any old karma or past debts come to vex and harm them.
As to you and everyone in the assembly who is still studying, and as to cultivators of the future who rely on my platform, hold the precepts in accord with the dharma, receive the precepts from pure members of the Sangha, and hold this mantra-heart without giving rise to doubts: should such good men as these not obtain mind-penetration in that very body born of their parents, then the Thus Come Ones of the ten directions have lied!”
When he finished this explanation, measureless hundreds of thousands of vajra power-knights in the assembly came before the Buddha, placed their palms together, bowed, and said, “With sincere hearts we will protect those who cultivate Bodhi in this way, according to what the Buddha has said.”
Then the Brahma King, the God Shakra, and the four great heavenly kings all came before the Buddha, made obeisance together, and said to the Buddha, “If indeed there be good men who cultivate and study in this way, we will do all we can to earnestly protect them and cause everything to be as they would wish throughout their entire lives.”
Moreover measureless great yaksha generals, rakshasa kings, putana kings, kumbhanda kings, pishacha kings, vinayaka, the great ghost kings, and all the ghost commanders came before the Buddha, put their palms together, and made obeisance.
“We also have vowed to protect these people and cause their resolve for Bodhi to be quickly perfected.”
Further, measureless numbers of gods of the sun and moon, lords of the rain, lords of the clouds, lords of thunder, lords of lightning who patrol throughout the year, and all the retinues of stars which were also in the assembly bowed at the Buddha’s feet and said to the Buddha, “We also protect all cultivators, so that their Bodhimandas are peaceful and they attain fearlessness.”
Moreover, measureless numbers of mountain spirits, seaspirits, and all those of the earth – the myriad creatures and essences of water, land, and the air – as well as the king of wind spirits and the gods of the Formless Heavens, came before the Thus Come One, bowed their heads, and said to the Buddha, “We also will protect these cultivators until they attain Bodhi and will never let any demons have their way with them.”
Then Vajra-Treasury-King Bodhisattvas in the great assembly, numbering as many as eighty-four thousand nayutas of kotis’ worth of sands in the Ganges, arose from their seats, bowed at the Buddha’s feet, and said to the Buddha, “World Honored One, the nature of our deeds in cultivation is such that, although we have long since accomplished Bodhi, we do not grasp at Nirvana, but always accompany those who hold this mantra, rescuing and protecting those in the final age who cultivate samadhi properly.
World Honored One, such people as this, who cultivate their minds and seek proper concentration, whether in the bodhimanda or walking about, and even such people who with scattered minds roam and play in the villages, will be accompanied and protected by us and our retinue of followers.
Although the demon kings and the god of great comfort will seek to get at them, they will never be able to do so. The smaller ghosts will have to stay ten yojanas’ distance from these good people, except for those beings who have decided they want to cultivate dhyana.
World Honored One, if such evil demons or their retinues want to harm or disturb these good people, we will smash their heads to smithereens with our vajra pestles.
We will always help these people to accomplish what they want.
= SURANGAMA SUTRA=
=====
Lại nữa A Nan! Nếu có người đàn bà chưa có con, mong CẦU CÓ THAI, chí tâm tưởng niệm, hoặc đeo chú này, thì được sanh những đứa con trai, gái có phước đức trí huệ, cầu SỐNG LÂU được SỐNG LÂU, cầu PHƯỚC BÁO được phước báo, cho đến cầu THÂN MẠNG SỨC MẠNH đều được như thế.
Sau khi chết, tùy nguyện vãng sanh trong mười phương quốc độ, chắc chắn chẳng sanh nơi biên địa, dòng hạ tiện, huống là các tạp hình!
A Nan! Nếu các quốc độ, châu huyện, làng xóm bị nạn đói kém, ôn dịch; hoặc những nơi bị bịnh loạn, giặc cướp đánh nhau và tất cả những nơi có tai nạn khác, viết thần chú này dán nơi bốn cửa thành, và những thấp miếu hoặc trên các tràng phan, khiến chúng sanh trong nước thừa phụng chú này, cung kính lễ bái, nhất tâm cúng dường; khiến nhân dân mỗi mỗi đeo chú trong mình, hoặc để nơi chỗ ở, thì tất cả tai nạn thảy đều tiêu diệt.
A Nan! Nếu chúng sanh nơi các quốc độ, hễ chỗ nào có chú này, thì Thiên Long vui mừng, mưa gió thuận thời, ngũ cốc được mùa, dân chúng an vui; những tai chướng do tất cả ác tinh biến quái ở mọi nơi, đều chẳng sanh khởi, người chẳng chết yểu, gông, cùm, xiềng, xích, chẳng dính vào mình, ngày đêm ngủ yên, thường chẳng ác mộng.
A Nan! Cõi Ta Bà này có tám vạn bốn ngàn tai biến ác tinh, do 28 đại ác tinh làm thượng thủ; lại có 8 đại ác tinh làm chủ, xuất hiện trên đời với nhiều hình dạng, hay gây các tai họa kỳ lạ cho chúng sanh. Hễ có chú này thì thảy đều tiêu diệt, trong phạm vi 12 do tuần, các tai biến hung dữ, trọn chẳng thể xâm nhập.
Cho nên Như Lai thuyết chú này, bảo hộ người tu hành sơ học đời vị Lai, vào Tam Ma Địa, thân tâm thư thái, được đại yên ổn chẳng bị tất cả tà ma, quỷ thần, và những oán thù, nghiệp cũ nợ xưa từ vô thỉ đến quấy hại.
Ngươi và hàng hữu học trong chúng, với người tu hành đời vị Lai, y pháp trì giới trong đạo tràng, được vị thầy truyền giới trong sạch, đối với tâm chú này chẳng sanh nghi hoặc, thì cái thân do cha mẹ sanh của người này, nếu chẳng được tâm thông, mười phương Như Lai bèn thành vọng ngữ.
Nói xong, vô số Kim Cang đều nhất thời đảnh lễ bạch Phật: Như lời Phật dạy, chúng con xin thành tâm bảo hộ người tu đạo Bồ Đề.
Bấy giờ, Phạn Vương và Đế Thích, Tứ Thiên Vương cũng đồng thời đảnh lễ bạch Phật: Nếu có người tu học như thế, chúng con xin hết lòng bảo hộ, khiến họ suốt đời việc làm thỏa nguyện.
Còn có vô số Quỷ Vương chắp tay đảnh lễ bạch Phật: Chúng con cũng thệ nguyện hộ trì cho người ấy, khiến tâm Bồ Đề mau được viên mãn.
Còn có vô số Nhật Nguyệt Thiên tử, Phong Sư, Vũ Sư, Vân sư, Lôi Sư, cùng với Điện Sư, Tuần Quan, Chư Tinh và quyến thuộc đảnh lễ bạch Phật: Chúng con cũng bảo hộ người tu hành ấy an lập đạo tràng, được vô sở úy.
Còn có vô số Sơn Thần, Hải Thần, Phong Thần, cõi Trời Vô Sắc, tất cả tinh kỳ trên mặt đất, dưới nước và trên không, đồng thời đảnh lễ bạch Phật: Chúng con cũng bảo hộ người tu hành ấy được thành Bồ Đề, trọn chẳng ma sự.
Khi ấy, tám vạn bốn ngàn ức hằng sa Bồ Tát Kim Cang Tạng Vương trong hội, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ bạch Phật:
Như chúng con tu thành Bồ Đề đã lâu, mà chẳng thủ chứng Niết Bàn, thường theo chú này, cứu giúp những người chơn tu Tam Ma Địa trong đời mạt pháp. Thế Tôn, những người tu tâm cầu chánh định như thế, dù ở đạo tràng hay lúc kinh hành, cho đến lúc đi dạo chơi, con và đồ chúng thường theo hộ vệ người ấy.
Dẫu cho Ma vương, Đại Tự Tại Thiên muốn tìm cách quấy phá, trọn chẳng thể được. Các quỷ thần nhỏ phải cách xa người ấy ngoài mười do tuần, chỉ trừ khi họ đã phát tâm tu thiền chánh pháp thì mới được gần người ấy. Thế Tôn, nếu những ác ma hay quyến thuộc ma, muốn đến xâm nhiễu người ấy, thì con dùng chày Kim Cang đập nát đầu họ như vi trần, khiến người ấy việc làm thỏa nguyện.
- Kinh Lăng Nghiêm-
- phần: VI DIỆU THẦN CHÚ


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét