-HT. Tuyên Hóa giảng-
« MỘT LÀ LỄ KÍNH CHƯ
PHẬT » :
Chúng ta không phải
chỉ đảnh lễ đức Phật Thích Ca Mâu Ni, hoặc Phật A Di Đà.
Mà một cái lễ lạy,
tức là tất cả lễ lạy, một vị Phật, tức là tất cả vị Phật;
Lễ một vị Phật, tức
là lễ tất cả vị Phật.
Lễ tất cả vị Phật,
tức là lễ một vị Phật.
Lễ tất cả vị Phật, mà
chẳng chấp tất cả vị Phật.
Lễ một vị Phật, cũng
chẳng chấp một vị Phật, hành thật tướng bình đẳng lễ, tuy lễ tất cả vị Phật,
hoặc một vị Phật, nhưng chẳng chấp vào hình tướng.
Chẳng phải nói : «
Công đức của tôi rất lớn, vì tôi lạy nhiều vị Phật, những người khác chẳng tu
hành giống như tôi », lạy Phật đừng có chấp tướng.
Lễ kính chư Phật,
phải chăng chư Phật cần chúng ta lễ kính ?
Chúng ta lễ Phật, thì
Phật cũng là Phật.
Chúng ta chẳng lễ
Phật, thì Phật cũng vẫn là Phật.
Chứ chẳng phải chúng
ta lễ Phật, thì Phật được nhiều lợi ích hơn một chút, lớn hơn một chút;
Còn chúng ta chẳng lễ
Phật, thì Phật chẳng được lợi ích, cũng nhỏ hơn một chút.
Chúng ta lễ Phật, là
đem hết lòng cung kính của chúng ta, đối với phần của Phật cũng chẳng tăng,
chẳng giảm, cho nên lễ Phật đừng chấp trước.
« HAI LÀ KHEN NGỢI
NHƯ LAI » :
Tại sao phải khen
ngợi Như Lai ?
Như Lai cũng chẳng
cần người khen ngợi, chẳng giống như chúng ta, bạn khen ngợi họ, thì họ vui
mừng lắm, lỗ mũi cũng cười, con mắt cũng cười.
Bạn chẳng khen ngợi
họ, thì con mắt của họ sẽ nổi giận, lỗ mũi cũng nổi giận.
Nếu như thế thì Phật
với người chẳng có sự phân biệt, vậy chúng ta không cần lạy Phật, cũng chẳng
cần khen ngợi Phật.
Tại sao ?
VÌ NGÀI VẪN GIỐNG NHƯ
PHÀM PHU, SAO CHÚNG TA LẠI PHẢI LẠY NGÀI, SAO PHẢI KHEN NGỢI NGÀI ?
Vậy Ngài không cần
người khen ngợi Ngài, tại sao chúng ta vẫn muốn khen ngợi Ngài ?
Đây chẳng phải là mâu
thuẫn chăng ?
Đây chẳng phải là mâu
thuẫn, chúng ta khen ngợi Phật, thì đối với tự tánh của chúng ta có công đức.
Có công đức gì ?
Trong tự tánh của mỗi
người đều có quang minh.
Nếu bạn khen ngợi
Phật, thì ánh sáng của bạn sẽ hiện ra, chiếu phá đen tối của bạn.
Bạn khen ngợi công
đức của Phật, thì trong vô hình khiến cho bạn sẽ không tạo tội nghiệp, sẽ không
khởi vọng tưởng.
Bạn bớt khởi một chút
vọng tưởng, thì trí huệ quang minh của bạn sẽ hiển lộ ra nhiều một chút. Tại
sao người tu hành sợ khởi vọng tưởng ?
Vì khởi một vọng
tưởng, thì làm cho tự tánh nhiễm phủ một lớp đen tối.
Chẳng khởi vọng
tưởng, thì tự tánh quang minh sẽ hiển lộ ra.
Khi khen ngợi Phật,
trong tâm hoan hỉ Phật, thì trí huệ quang minh hợp với Phật, tự tánh quang minh
cũng theo đó mà hiển hiện ra.
THẾ NÀO LÀ KHEN NGỢI
NHƯ LAI ?
Ví như : « Thiên
thượng thiên hạ vô như Phật » :
Trên trời dưới nhân
gian, chẳng có vị Bồ Tát, Bích Chi Phật, A La Hán, vị Thần nào, có thể sánh với
Phật được.
« Thập phương thế
giới diệc vô tỉ » :
Chẳng riêng gì trên trời,
dưới nhân gian, chẳng có ai bằng Phật, mà trong mười phương thế giới, cũng
chẳng có ai bằng Phật được.
Thế giới nầy của
chúng ta có châu Mỹ, châu Phi, châu Á, châu Âu, châu Úc, năm châu lớn, nhưng
chẳng có một người nào trên thế giới, cũng như trong mười phương vô lượng vô
biên các thế giới.
Hiện nay con người có
thể dùng hoả tiễn đi đến mặt trăng, mặt trăng có thể nói là một thế giới khác,
chỉ bất quá là một thế giới nhỏ.
Con người và vạn vật
trong mười phương thế giới, tuy rất nhiều, nhưng cũng không thể nào bằng Phật
được.
« HẾT THẢY THẾ GIAN
TA THẤY HẾT”: Hết thảy tất cả thế giới này, ta đều nhìn thấy hết.
« TẤT CẢ KHÔNG CÓ AI
NHƯ ĐỨC PHẬT » : Tất cả chẳng có ai có thể sánh với Phật được. Lại nói :
« PHẬT A DI ĐÀ THÂN
SẮC VÀNG » : Thân của đức Phật A Di Đà, giáo chủ cõi tây phương Cực Lạc thế
giới, là màu vàng ròng.
« TƯỚNG TỐT QUANG
MINH CHẲNG AI BẰNG » :
Ba mươi hai tướng và
tám mươi vẻ đẹp của Ngài, quang minh chiếu khắp, chẳng có ai có thể sánh với
Ngài được.
« TƯỚNG BẠCH HÀO UYỂN
CHUYỂN NHƯ TU DI » : Tướng hào quang trắng giữa lông mi của Phật A Di Đà, uyển
chuyển như núi Tu Di.
« Mắt Phật xanh biếc
như nước bốn biển » : Mắt của Phật A Di Đà xanh biếc như nước bốn biển.
« Trong quang minh có
vô số hoá Phật » : Trong quang minh của Phật A Di Đà, hoá ra vô lượng vô biên
chư Phật.
« Hoá Bồ Tát cũng
nhiều vô biên » : Ngài lại hoá ra rất nhiều Bồ Tát, chẳng những có hoá Phật, mà
còn có hoá Bồ Tát, hoá Thanh Văn, Duyên Giác và sáu nẻo chúng sinh, vô lượng vô
biên.
« Bốn mươi tám nguyện
độ chúng sinh » : Phật A Di Đà có bốn mươi tám đại nguyện, để độ thoát tất cả
chúng sinh.
« Chín phẩm sen vàng
lên bờ giác » : Hoa sen phân ra làm chín phẩm, mỗi một phẩm lại phân ra chín
phẩm, tổng cộng tám mươi mốt phẩm, tám mươi mốt phẩm hoa sen nầy, đều tiếp dẫn
chúng sinh đến Niết Bàn bờ bên kia,
Đây là một bộ phận
tán thán Như Lai, cho nên thứ hai tu công đức tức là phải tán thán Như Lai. «
Như Lai » :
Trong Kinh Kim Cang
có nói :
« Bậc Như Lai, chẳng
từ đâu đến, cũng chẳng đi về đâu, nên gọi là Như Lai ».
Như là tĩnh, Lai là
động.
Như Lai có thể nói
giống như đã đến rồi, nhưng bản thể của Ngài chẳng động. Lai - Chẳng từ đâu
đến, đi - chẳng đi về đâu.
Như là lý,
Lai là sự,
Đây cũng là cảnh giới
lý sự vô ngại của bản Kinh,
bản Kinh có lý pháp
giới, sự pháp giới, lý sự vô ngại pháp giới, sự sự vô ngại pháp giới.
Như Lai là cảnh giới
lý sự vô ngại, cũng là một trong mười danh hiệu của Phật.
« BA LÀ RỘNG TU CÚNG
DƯỜNG » :
Rộng là rộng lớn.
Tu tức là phải thực
hành, tu hành cúng dường rộng lớn,
Cúng dường có rất
nhiều thứ như :dùng thân cúng dường, dùng tâm cúng dường, cùng thân- tâm để
cúng dường.
*THẾ NÀO GỌI LÀ DÙNG
THÂN CÚNG DƯỜNG ?
Giống như hai chúng
đệ tử xuất gia, đây tức là dùng thân cúng dường chư Phật, dùng thân làm Phật
sự, tu hành Phật pháp.
Chẳng những dùng thân
để cúng dường, cũng có thể nói dùng tâm để cúng dường, dùng chân tâm để tu hành
Phật pháp.
-Hằng ngày lễ lạy
Phật, tụng kinh, niệm niệm không quên, đều hoan hỉ tu hành Phật pháp,
Đây gọi là thân- tâm
cúng dường.
Cũng có dùng thân
cúng dường, tức là một số người tại gia không thể chánh thức xuất gia, hoặc
trong sự bận rộn họ đến Chùa lạy Phật, thắp hương lạy Phật.
Đây gọi là THÂN CÚNG
DƯỜNG, hoặc thân chẳng đến, bận rộn chẳng có thời gian, mỗi ngày ở tại nhà thành
tâm thắp lên bàn Phật một cây nhang, cúi đầu lễ Phật, lạy Phật, hoặc quán tưởng
lạy Phật.
Đây gọi là tâm cúng
dường. Hoặc dùng hương, hoa, để cúng dường, hoặc ở trước bàn Phật thắp đèn lên
để cúng dường.
Hoặc mua trái cây
cúng Phật, hoặc đốt đèn cầy lên cúng Phật, hoặc dùng y mới để cúng dường Phật
.v.v…
« RỘNG TU CÚNG DƯỜNG
», vốn có mười thứ cúng dường,
Mười thứ cúng dường
biến thành trăm thứ cúng dường,
Trăm thứ cúng dường
biến thành ngàn thứ, vạn thứ cúng dường.
Khi chúng ta cúng
dường một vị Phật, thì ở trước một vị Phật, chúng ta quán tưởng cúng dường vô
lượng vô biên chư Phật khắp pháp giới.
ở trước mỗi vị Phật
đều có thân của chúng ta đang cúng dường.
Bạn quán tưởng như
thế gọi là cúng dường pháp giới.
Cúng dường pháp giới,
thì cũng sẽ thành tựu công đức pháp giới.
Thành tựu công đức
pháp giới, thì đắc được trí huệ pháp giới, bạn đắc được TRÍ HUỆ PHÁP GIỚI, thì
viên thành quả vị pháp giới.
Cho nên, rộng tu cúng
dường, tức là tận hết sức lực của bạn, để cúng dường Phật Pháp Tăng Tam Bảo.
« BỐN LÀ SÁM HỐI
NGHIỆP CHƯỚNG » :
Sám là ăn năn những
lỗi lầm đã tạo trước kia.
Hối là hối cải không
làm nữa.
Sám là sửa đổi những
tội lỗi đã phạm trước kia.
Hối là sau này không
làm những tội lỗi đã phạm trước kia.
Đó là việc ác đã
sinh, nay chấm dứt.
Việc ác chưa sinh,
nay không sinh ra nữa.
Hối cũng là việc
thiện đã sinh, nay làm cho tăng trưởng, việc thiện chưa sinh, nay khiến cho
sinh ra.
Nghiệp có rất nhiều
thứ, nghiệp chướng là một trong ba chướng.
Ba chướng là nghiệp
chướng, báo chướng, phiền não chướng.
Hiện tại nói về sám
hối nghiệp chướng, tức cũng là sám hối báo chướng, cũng là sám hối phiền não
chướng.
Nghiệp chướng có ba
thứ :
Thân nghiệp, miệng
nghiệp, ý nghiệp.
Thân nghiệp tạo ra
gồm có giết hại, trộm cắp, tà dâm.
Giết hại : Thô thì
giết hại những sinh vật lớn, như giết bò, dê, heo v.v… Tế, thì giết hại những
sinh vật nhỏ, như giết kiến, muỗi, ruồi v.v…
Ngoài thô và tế ra,
còn có cố ý giết, trong tâm muốn giết, tuy chưa hành động, nhưng trong tánh
giới thì đã phạm giới rồi.
Trong tánh không nên
giết, mà trong tâm động niệm giết, về Bồ Tát giới thì đã phạm giới giết hại.
Trộm cắp cũng như
thế, lớn thì trộm chiếm nước khác, nhỏ thì trộm đồ vật của người khác.
Tóm lại, người ta
không cho mà lấy là trộm.
Nghiệp dâm, cũng có
lớn, có nhỏ, có thô, có tế, cho đến trong tâm khởi niệm dâm, thì trong tự tánh
chẳng thanh tịnh.
Ý có ba điều ác :
Tham, sân, si.
Miệng có bốn điều ác
: Nói dối, thêu dệt, hai lưỡi, chửi mắng.
Thuở xưa đã tạo đủ
thứ tội nghiệp, cho nên hiện tại chúng ta phải phát tâm sám hối.
Đã tạo lỗi lầm, thì
về sau đừng tái phạm nữa;
những điều ác chưa
làm, thì đừng khiến cho nó sinh ra.
Đây gọi là sám hối
nghiệp chướng.
Sám hối như thế nào ?
THÌ PHẢI Ở TRƯỚC PHẬT
ĂN NĂN HỐI CẢI, KHÓC LÓC RƠI LỆ, DÙNG CHÂN TÂM SÁM HỐI, THÌ NGHIỆP CHƯỚNG TỰ
NHIÊN SẼ TIÊU TRỪ.
Do đó có câu :
« Di thiên đại tội,
nhất sám liền tiêu »,
Nghĩa là :
« DÙ TỘI CÓ LỚN, SÁM
HỐI SẼ TIÊU TRỪ ».
« NĂM LÀ TUỲ HỈ CÔNG
ĐỨC » :
Tuỳ là tuỳ theo, hỉ
là hoan hỉ, công là lập công, đức là làm đức hạnh.
Tuỳ hỉ, cũng kêu
người khác tuỳ hỉ chính mình để làm công đức, chính mình cũng tuỳ hỉ người khác
làm công đức.
Bạn muốn sám hối
nghiệp chướng, thì nhất định phải tuỳ hỉ công đức, làm đủ thứ công đức.
Bạn sám hối nghiệp
chướng của chính mình, hoặc không thể nhứt thời tiêu trừ hết, nên càng phải làm
nhiều công đức.
Tuỳ hỉ công đức tức
là sám hối nghiệp chướng, sám hối nghiệp chướng, cũng tức là tuỳ hỉ công đức.
Tại sao thứ năm là
tuỳ hỉ công đức ?
Vì thứ tư là sám hối
nghiệp chướng.
Bạn muốn sám hối
nghiệp chướng, thì nhất định phải thực hành tuỳ hỉ công đức thứ năm.
Tuỳ hỉ công đức là
bao quát làm tất cả việc thiện, hết thảy công đức lành đều phải tuỳ hỉ, tội
nghiệt lỗi lầm đừng làm.
Làm thế nào tuỳ hỉ
công đức lành ?
Như có người đề nghị
làm một việc gì đó có lợi ích cho người khác,
Đây gọi là lành
(thiện).
Thế nào gọi là LẬP
CÔNG ?
Công là việc công
cộng, làm nhiều việc có ích cho đại chúng.
Bạn xem chữ công là
công tác, thêm chữ lực, nghĩa là bạn phải bỏ chút sức lực, để làm việc công
cộng, như làm đường xá, làm cầu.
Việc bạn làm, khiến
cho mọi người đều được lợi ích, thì gọi là làm công.
Công có thể tồn tại,
có hình tướng, một số người có thể thấy được,
Ai ai cũng đều biết
việc đó là ai làm, như bạn xây bao nhiêu trường học, trường học có khắc tên của
bạn, đây gọi là lập công.
Đức là làm được nơi
tâm, việc bạn làm, khiến cho trong tâm hoan hỉ, gọi là đức.
Thứ đức hạnh này, một
số người không nhất định biết.
Đức có phân ra hiển
đức và mật đức.
Hiển đức là việc bạn
làm, một số người đều rất vui mừng, hiển bày ra, mọi người đều biết hết.
Mật đức, tức là việc
bạn làm, có lợi ích đối với mọi người, nhưng một số người không biết.
Ví như có thần thông
rồi, trong vô hình đi trợ giúp hết thảy chúng sinh, mà họ đều không biết, đây
gọi là mật đức.
Tuỳ hỉ công đức, là
việc tốt mình làm được, nên khiến cho người khác tuỳ hỉ đến làm; còn việc tốt
của người khác làm, bạn biết rồi, cũng nên tận hết sức lực của mình đi trợ giúp
người khác, đây gọi là tuỳ hỉ công đức của người khác.
Tuỳ hỉ công đức,
chẳng những tuỳ hỉ chính mình, mà cũng tuỳ hỉ người khác, cho đến tuỳ hỉ hết
thảy chúng sinh pháp giới hoan hỉ làm việc công đức lành, bạn đều đi trợ giúp
họ làm.
Lại có tuỳ hỉ công
đức của Phật, công đức của Bồ Tát, công đức của Thanh Văn Duyên Giác, tuỳ hỉ
công đức của tất cả chúng sinh.
Thế nào gọi là tuỳ hỉ
công đức của Phật ?
Ví như giảng Kinh
thuyết pháp, giáo hoá chúng sinh, đây tức là tuỳ hỉ công đức của Phật.
Đề xướng mọi người
thực hành lục độ vạn hạnh, hành Bồ Tát đạo, đây là tuỳ hỉ công đức của Bồ Tát.
Đề xướng tu mười hai
nhân duyên, đây là tuỳ hỉ công đức của Duyên Giác.
Bạn khiến cho tất cả
mọi người tu pháp bốn đế, tức là tuỳ hỉ công đức của Thanh Văn.
Sáu nẻo chúng sinh
tuỳ hỉ công đức trời người, tức là tu năm giới mười điều lành. Cho nên nói về
tuỳ hỉ công đức thì vô cùng vô tận.
« SÁU LÀ THỈNH CHUYỂN
BÁNH XE PHÁP » :
Thế nào là bánh xe
pháp ?
Bánh xe có tác dụng
thôi phục thiên ma ngoại đạo, khiến cho chánh pháp trụ lâu dài.
Sau khi đức Phật
thành Phật rồi, ba lần chuyển bánh xe pháp bốn đế độ năm vị Tỳ Kheo.
Chuyển bánh xe pháp
tức là thuyết pháp, như thỉnh Phật thuyết pháp, thỉnh Bồ Tát thuyết pháp, thỉnh
Thanh Văn, Duyên Giác thuyết pháp, thỉnh A La Hán thuyết pháp, thỉnh hết thảy
pháp sư thuyết pháp, đây đều gọi là thỉnh chuyển bánh xe pháp.
Như mỗi ngày giảng
Kinh, có hai vị cư sĩ, hoặc pháp sư ra thỉnh pháp, đây gọi là thỉnh chuyển bánh
xe pháp, đây là một trong mười hạnh nguyện Phổ Hiền.
CHUYỂN BÁNH XE PHÁP
CÓ ÍCH LỢI GÌ ?
Trên thế gian còn
người chuyển bánh xe pháp, thì ma vương không dám xuất hiện.
Nếu không còn ai
chuyển bánh xe pháp, thì ma vương sẽ xuất hiện ra đời.
Công đức chuyển bánh
xe pháp, là do bạn thỉnh pháp mà thành tựu, bạn sẽ có công đức, tức cũng là tuỳ
hỉ công đức.
Chuyển bánh xe pháp
có thể khai mở trí huệ của bạn.
Bạn thỉnh pháp sư vì
mọi người thuyết pháp, thì đối với mọi người đều có lợi ích, đây tức là tuỳ hỉ
công đức.
-Cho nên, mười đại
nguyện liên kết với nhau, như muốn sám hối nghiệp chướng, thì phải tuỳ hỉ công
đức.
Bạn muốn tuỳ hỉ công
đức, thì phải thỉnh chuyển bánh xe pháp.
*Thỉnh chuyển bánh xe
pháp, chẳng riêng gì giảng kinh thuyết pháp, phàm là làm tất cả mọi việc trong
Phật giáo, có liên quan đến Phật giáo, đều gọi là chuyển bánh xe pháp.
-Như làm việc thu âm
giảng kinh thuyết pháp, phiên dịch kinh điển, cho đến viết bài về Phật giáo có
lợi ích cho mọi người, đều là thỉnh chuyển bánh xe pháp.
Hơn nữa như ĐỌC KINH,
TỤNG KINH, LẠY KINH, THAM THIỀN ĐẢ TOẠ, đều là một phần trong thỉnh chuyển bánh
xe pháp.
Cho nên thỉnh chuyển
bánh xe pháp, chẳng phải riêng gì một việc giống nhau, phàm là tất cả mọi việc
làm trong Phật giáo, việc có lợi ích cho Phật giáo, đều là thỉnh chuyển bánh xe
pháp.
Chỉ cần bạn minh
bạch, tức là thỉnh chuyển bánh xe pháp,
Nếu chẳng minh bạch,
làm những việc đó cảm thấy quá khổ cực, quá mệt mỏi, đây gọi là sợ chuyển bánh
xe pháp.
« BẢY LÀ THỈNH PHẬT Ở
LẠI ĐỜI » :
Phật ra đời, ở lại
đời, sau đó vào Niết Bàn.
Khi Phật ở lại đời,
giống như thế gian có mặt trời, soi sáng thế gian.
Phật vào Niết Bàn,
thì thế gian đen tối,
Do đó Bồ Tát Phổ Hiền
phát đại nguyện muốn thỉnh Phật ở lại đời, thỉnh Phật đừng vào Niết Bàn, mãi
mãi ở lại thế gian.
Phật thì hay làm mãn
nguyện chúng sinh, nếu hết thảy chúng sinh đều thỉnh Phật ở lại đời, thì Phật
sẽ không vào Niết Bàn.
Nếu chẳng thỉnh Phật
ở lại đời, thì Phật giáo hoá những người đáng được giáo hoá, xong rồi sẽ vào
Niết Bàn.
« TÁM LÀ THƯỜNG THEO
PHẬT HỌC » :
Là luôn luôn theo
Phật để học tập Phật pháp.
Phật pháp rất là bao
la, nhưng học Phật pháp đừng sợ nhiều, học được nhiều, thì trí huệ càng nhiều.
Ví như tôn giả A Nan,
tại sao trí nhớ của Ngài tốt ?
Do đó : « Phật pháp
như biển cả, chảy vào tâm A Nan », vì tôn giả A Nan đời đời kiếp kiếp chú trọng
về đa văn, cho nên trí nhớ của Ngài rất tốt.
Thường theo Phật học
thì đừng giải đãi, đừng làm biếng, đừng hôn trầm, phải siêng tu giới định huệ,
tiêu diệt tham sân si;
Bạn phải siêng tu
giới định huệ, tiêu diệt tham sân si,
Đó tức là thường theo
Phật học.
« CHÍN LÀ LUÔN THUẬN
CHÚNG SINH » :
Luôn là luôn luôn,
luôn luôn không đổi, thuận là thuận theo, thuận theo cảnh giới chúng sinh.
Luôn thuận chúng
sinh, chúng sinh đều là điên đảo, phải chăng bạn luôn thuận chúng sinh điên đảo
?
Chúng sinh vốn chẳng
có tri thức, nếu bạn luôn thuận chúng sinh chẳng có tri thức, thì phải chăng
bạn đi vào con đường ngu si ?
Luôn thuận chúng
sinh, là thuận tập quán của chúng sinh, và ở trong nghịch lưu cứu vớt họ ra,
mới gọi là luôn thuận chúng sinh.
Vì chúng sinh đều là
điên đảo, điên đảo tức là nghịch lưu.
Nếu bạn thuận chúng
sinh, thì không thể thành Phật.
Nếu bạn muốn thành
Phật, thì không thể thuận chúng sinh.
Tại sao Bồ Tát Phổ
Hiền muốn luôn thuận chúng sinh ?
Tức là muốn ở trong
dòng nghịch lưu, làm cho chúng sinh thuận theo và cứu vớt họ thoát ra.
Do đó :
« Ngược dòng phàm phu
sáu trần, nhập vào dòng pháp tánh Thánh nhân », đây là luôn thuận chúng sinh.
Chúng sinh hoan hỉ
tạo nghiệp, e rằng bạn cũng muốn tạo nghiệp chăng ?
Chúng sinh khởi hoặc,
tạo nghiệp, thọ quả báo, nếu bạn theo chúng sinh khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ quả
báo, thì đó chẳng phải là chúng sinh chăng ?
Luôn thuận chúng
sinh, tức cũng là luôn luôn độ chúng sinh không biết nhàm mỏi, khiến cho chúng
sinh bỏ mê về giác.
Tức cũng là tu tinh
tấn ba la mật, không chán ghét chúng sinh tạo tội, dù có chúng sinh tạo rất
nhiều tội nghiệp, cũng không bỏ họ, không có tâm niệm rằng :
« Không độ họ, để họ
đoạ địa ngục », nên dùng tâm từ bi hỉ xả để độ họ, đây mới là chân chánh tinh
tấn ba la mật.
Khi đức Phật Thích Ca
Mâu Ni tu đạo tại nhân địa, thì ở trong núi tu bố thí tinh tấn ba la mật.
Một ngày nọ, trời đổ
tuyết xuống quá nhiều.
Hết thảy mọi vật trên
núi đều bị tuyết bao phủ hết.
Có một con hổ mẹ dẫn
theo hổ con đi tìm thức ăn, nhưng tìm cách gì cũng chẳng có thức ăn, nhìn thấy
hổ mẹ và hổ con sắp chết đói, đi cũng đi hết nổi.
Lúc đó đức Phật Thích
Ca Mâu Ni tâm nghĩ :
« Tôi muốn đem thân
này bố thí cho hổ đói, để họ ăn rồi, sẽ phát bồ đề tâm, thành vô thượng đạo ».
Phát nguyện đó rồi,
Ngài bèn chạy đến chỗ hổ mẹ hổ con, xả thân cứu hổ.
Đây là một phần trong
luôn thuận chúng sinh, đồng thời cũng là bố thí ba la mật, cũng là tinh tấn ba
la mật.
Chúng ta luôn thuận
chúng sinh là phải độ thoát chúng sinh, đưa chúng sinh ra khỏi đường mê, khiến
cho chúng sinh thuận theo mình tu đạo, chứ chẳng phải là chạy theo chúng sinh.
« MƯỜI LÀ HỒI HƯỚNG
KHẮP HẾT » :
Hồi là hồi lại, hướng
là hướng tới;
Hồi là hồi vào bên
trong, hướng là hướng ra bên ngoài.
Khắp là khắp cùng,
hết thảy tất cả mọi việc, tất cả công đức, đều hồi hướng về chư Phật.
Trước hết phải hồi
lại, sau đó hướng ra bên ngoài.
Tất cả tất cả đem
phàm phu hồi hướng Thánh nhân, đem chúng sinh hồi hướng chư Phật.
Hồi phàm hướng Thánh,
đây là hồi hướng; hồi chúng hướng Phật, đây là hồi hướng;
Hồi sự hướng lý, đây
là hồi hướng; hồi tiểu hướng đại, đây là hồi hướng; hồi tự hướng tha, đây là
hồi hướng.
Thế nào gọi là HỒI TỰ
HƯỚNG THA ?
Ví như tôi đem công
đức làm việc tốt, hồi hướng cho bạn bè của tôi, khiến cho họ cũng phát bồ đề
tâm, thành vô thượng đạo.
Hồi sự hướng lý, tức
là việc làm tuy là hữu hình, nhưng muốn hồi hướng lý, lý là vô hình, đem công
đức hữu hình, hồi hướng về pháp giới vô hình.
Hồi tiểu hướng đại,
là hiện tại tuy tôi là tiểu thừa, nhưng chẳng tu pháp tiểu thừa, mà tu tập pháp
đại thừa.
Như chúng ta mỗi ngày
giảng Kinh xong rồi, đều đọc bài kệ hồi hướng rằng :
« Nguyện đem công đức
này
Trang nghiêm cõi Phật
thanh tịnh
Trên đền bốn ân nặng
Dưới cứu ba đường khổ
Nếu có ai thấy nghe
Liền phát tâm bồ đề
Khi xả báo thân này
Đồng sinh về Cực
Lạc”.
-Giảng Kinh là bố thí
pháp, là bố thí thù thắng nhất.
có thể nói là lớn hơn
công đức đem bảy báu ba ngàn đại thiên thế giới ra bố thí.
Tuy lớn như vậy,
nhưng công đức đó tôi không cần, mà nguyện đem công đức giảng Kinh thuyết pháp
này, để trang nghiêm cõi tịnh độ của mười phương chư Phật.
Trên báo đủ thứ ân
trời đầt, quốc vương, cha mẹ, sư trưởng, dưới cứu địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh,
ba đường khổ.
Giả sử, có ai gặp
được pháp hội giảng Kinh, nghe thấy được pháp này, thì mau phát bồ đề tâm.
Thân nầy hiện tại của
chúng ta là báo thân, khi thân nầy không còn nữa, thì mọi người cùng nhau sinh
về thế giới Cực Lạc.
Đây tức là hồi hướng.
Bồ Tát Phổ Hiền làm
tất cả công đức, đều hồi hướng về chư Phật.
-Hòa Thượng Tuyên Hoá
giảng giải-
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét